Sunday, September 21, 2025

VIỆT PHẠM, NGƯỜI ‘HÁT XẨM’ VĂN CHƯƠNG

Đinh Yên Thảo

 
Trên một mẩu viết ngắn vài năm trước, anh Phạm Trọng Việt mà bạn bè Facebook vẫn quen thuộc là Việt Phạm đã ví chuyện dịch thơ của anh rằng, "Mượn lời cố GS Nguyễn Ngọc Huy: Tôi dịch thơ cũng như những người hát xẩm ngày xưa đi hát lang thang ở các quán ăn bên vỉa hè Saigon, có bữa đông khách, gặp khi trời mưa thì vắng khách, không ai nghe, nhưng người hát xẩm thì cứ hát". Bên dưới là một bản dịch thơ của anh.
 
THE DEATH OF A SOLDIER
 
Life contracts and death is expected,
As in a season of autumn.
The soldier falls.
 
He does not become a three-days’ personage,
Imposing his separation,
Calling for pomp.
 
Death is absolute and without memorial,
As in a season of autumn,
When the wind stops.
 
When the wind stops and, over the heavens,
The clouds go, nevertheless,
In their direction.
 
***
 
CÁI CHT CA NGƯỜI LÍNH
 
Người lính nằm xuống
mùa thu
lá vàng rơi
đời mong manh
cái chết chẳng tình cờ
 
Ba ngày sau không tái sinh
Người lính ra đi
đừng mong đợi một dương danh
 
Không có nghi lễ gì
chết là hết
như con gió vừa ngưng
giữa mùa thu
 
Gió đã ngưng
mây vẫn bay theo chiều gió
về phía Thiên Đường
 
Wallace Stevens / Việt Phạm dịch
 
Vậy, kể từ ngày vào Facebook sau một lần họp mặt cùng anh em trong nhóm, đâu khoảng 8, 9 năm trước, anh bắt đầu dịch thơ, dịch dăm câu bài hát sang Anh ngữ, bàn dăm câu chuyện văn chương, lịch sử ngắn gọn rồi liên tục đưa lên Facebook như vậy. Một thú vui khác từ sau ngày anh "về Hồng Lĩnh", cách anh nói về việc nghỉ hưu của mình sau trên dưới 40 năm làm việc cho chính phủ Canada. Và đăng ảnh cháu nội ngoại như những ông bà yêu thương con cháu.
 
Tôi vẫn quen với cách viết ngắn gọn, nhẹ nhàng và dí dỏm nhưng rất trí tuệ, am hiểu lịch sử, văn hóa, chính trị, thi ca Việt Nam lẫn phương Tây từ khi biết anh hai mấy, gần ba mươi năm trước. Chúng tôi gọi anh là "thầy bàn" hay "thầy đồ" trong những cuộc bàn luận trong nhóm. Nho nhã, ôn hòa, anh được cả nhóm chúng tôi quý mến. Ắt anh là một trong những thành viên được cả nhóm quý mến nhất sau Phạm Chi Lan, người chủ biên tờ tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng (VHVHNT-LM), tờ báo Việt ngữ điện tử đầu tiên của người Việt, hoặc giả có tờ báo điện tử hay trang mạng online nào ra đời trước năm 1995-1996 mà tôi không biết.
 
Cũng như tôi, anh gia nhập nhóm trễ và được Phạm Chi Lan mời vào nhóm chủ biên, xem như một thành viên chủ chốt của nhóm VHNT-LM bên cạnh vài anh em đã tham gia từ những ngày đầu tiên như nhà văn Phùng Nguyễn, Nguyễn Phước Nguyên, Nguyễn Tiến Dũng, Sung Nguyễn, Đinh Trường Chinh, nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh ... sau một đôi năm hoạt động. Anh ký tên dưới những bài thơ, bài dịch và sáng tác là Phạm Thiên Mạc, tên con trai anh.
 
Đến Canada ở tuổi đôi mươi, anh đã giỏi tiếng Anh so với nhiều người tị nạn bởi năm 75, anh đang là một sinh viên Viện Đại học Đà lạt và đã đạt đến chứng nhận thành thạo Anh ngữ "Proficiency" của Hội Việt Mỹ trước đó đôi ba năm. Thêm vài chục năm sống ở nước ngoài và làm công việc chuyên viên cho chính phủ, dù uyên thâm tiếng Việt nhưng liên lạc riêng tư, anh thường viết bằng tiếng Anh, có lẽ vì sự tiện lợi bàn phím hay trên điện thoại. Tôi nhắc chuyện này bởi anh được nhiều bạn bè Facebook, những nhà thơ, người yêu văn chương biết đến anh như một người dịch thơ tài tử lại rất tài hoa. Anh-Việt lẫn Việt-Anh. Kể cả từ vài bạn trong nhóm chúng tôi, những người đến Mỹ ở tuổi thiếu niên và cũng am hiểu văn chương phương Tây lẫn việc dịch thuật như Phạm Chi Lan, Nguyễn Phước Nguyên, Ian Bùi...
 
Riêng tư hơn thì cụ Ngoại anh là một nhà nho Bắc Hà, đỗ kỳ thi Hương cuối cùng tại Hà Nội và làm quan Tri Huyện Ninh Bình. Còn nhạc phụ của anh là giáo sư Việt văn Nguyễn Cao Đàn, thầy dạy của nhà văn Duyên Anh lẫn nhà văn Lương Thư Trung, có lần anh trích đăng lên Facebook khi nhà văn Lương Thư Trung nhắc đến thầy mình trong cuốn sách "Bến bờ còn lại" của anh. Một gia đình truyền thống với chữ nghĩa.
 
Anh là người đọc rất nhiều lại có trí nhớ siêu phàm và chính xác, trích dẫn thi ca, lịch sử từ cái thời chưa có Google nên bàn luận, trò chuyện với anh luôn thú vị, đầy tính học thuật và chúng tôi luôn học hỏi được đôi điều gì đó từ một người anh chân thành, giản dị và khiêm cung. Có lẽ vì vậy mà anh dễ thân thiết với nhiều người và với riêng tôi, một phần tôi nghĩ có cùng tính cách báo chí và yêu thích lịch sử hơn là chỉ những câu chuyện văn chương. Có thời gian tôi sang làm việc tại Montreal, anh lên thăm tôi đôi lần, cặp theo một chai Martell và anh em uống rượu, trò chuyện đến khuya không dứt chuyện. Và tôi cũng xuống Ottawa thăm anh chị, được anh dắt giới thiệu về thủ phủ Canada với nhiều câu chuyện lịch sử lẫn giai thoại thú vị. Thân tình nên thỉnh thoảng tôi vào đùa dăm câu dưới những mẩu viết của anh trên Facebook là vậy. Anh cộng tác trên Trẻ Magazine với dăm bài viết dưới bút hiệu Phạm Thiên Mạc.
 
Anh gia nhập Facebook để giữ liên lạc cùng bạn bè sau chuyến họp mặt nhỏ và không đầy đủ của nhóm Ô Thước, nhóm văn nghệ của những cựu thành viên VHNT-LM tại Dallas khoảng đâu năm 2016, sau khi nhà văn Thu Thuyền và tôi mời gọi các anh em, bạn bè cũ về họp mặt. Rốt lại chỉ có anh, anh Đỗ Danh Đôn, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo, Trịnh Thanh Thủy bay sang, cùng những thành viên tại Dallas như Ian Bùi, Diễm Tú, Thận Nhiên, Tôn Thất Phương... Chỉ tiếc là anh cùng các bạn không gặp được nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp đang lúc đi xa.
 
Vậy mà cuộc họp mặt lại rất vui, đầy những tràng cười và để lại nhiều kỷ niệm cho mỗi người và tất cả chúng tôi. Kể cả một số thân hữu địa phương cùng dự cũng không giấu được sự cảm động trước mối giao tình thân thiết và tự nhiên của chúng tôi, vì biết chúng tôi dù có gặp nhau đôi ba lần nhưng thân nhau chỉ là qua mạng. Đêm đó, anh đọc bài thơ "Nhà tôi" của nhà thơ Nguyên Thao, sau này được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc "Chuyện giàn thiên lý". Bài thơ vài chục câu mà anh chỉ đọc từ trí nhớ, không mang giấy hay từ điện thoại.
 
Trưa cuối tuần, nhận được tin báo anh ra đi trong nhóm Ô Thước, tôi bàng hoàng, thẫn thờ. Tôi vẫn thấy anh đăng dăm câu dịch, vài mẩu viết ngắn nho nhỏ đôi ngày trước. Tôi đọc bằng mắt nên không dự cảm những ngầm ẩn đó đây của anh trong vài tháng qua. Buổi tối, tôi lại thêm sửng sốt nhận được email từ anh. Té ra sự ra đi đã được tiên liệu, anh bình thản viết sẳn cho tôi bức thư chia tay ngắn, nhờ tôi báo lại anh em, bạn bè, nhờ chị vợ anh gởi cho tôi sau hậu sự.
 
Đêm khuya, tôi ngậm ngùi tìm đọc lại bài thơ anh dịch để an ủi chúng tôi khi nhạc phụ tôi, một người lính-một cựu sĩ quan quân lực VNCH qua đời năm 2012. Đó là nguyên tác lẫn bản dịch của anh đăng lại lên Facebook đâu đôi ba năm trước mà tôi đã dẫn trên đầu, chỉ không ký tên Phạm Thiên Mạc như thuở xưa. Bài thơ không riêng cho người lính mà như để tiễn biệt những người bạn và cho chính anh. Cho những điều chẳng tránh khỏi.
 
"Không có nghi lễ gì
chết là hết
như con gió vừa ngưng
giữa mùa Thu
 
Gió đã ngưng
mây vẫn bay theo chiều gió
về phía Thiên Đường"
(bản dịch Phạm Thiên Mạc)
 
Tháng Chín này, Phạm Chi Lan ra đi đã tròn 16 năm. Nay đến người anh Phạm Trọng Việt hay một Phạm Thiên Mạc tài hoa của chúng tôi. Cần gì những nghi lễ hay nghi thức như anh viết, nhưng tôi không thể không chia sẻ đôi điều về anh để bạn bè, những người bạn Facebook của anh biết thêm về một tâm hồn mẫn cảm với cái đẹp, một người xem mình như kẻ "hát xẩm" văn chương rồi trân trọng chia sẻ nó đến mỗi chúng ta, những người biết anh.
 
Tôi luôn giữ ý định sẽ quay lại Canada thăm anh nhưng mấy ai biết trước sự đặt để của đời sống. "Thời gian có hứa mấy khi, sẽ đem đến trả đúng kỳ". Thôi, xem như một áng mây trắng ngang trời, cứ bay về phía thiên đường hay bất cứ nơi nào thật an nhiên nghe anh Việt.
 
Dallas, 09/2025
ĐINH YÊN THẢO
 
 

Friday, September 19, 2025

MẸ

Huỳnh Liễu Ngạn
 
Bóng mẹ
 
tàn hơi bước về
ngút ngút mây đưa
ta nhớ mẹ già
thắp sáng tim ta
 
Huế 1973
HLN 

Wednesday, September 17, 2025

CHỚM THU

Hoàng Xuân Sơn
 
Vàng quỳ khô
 
Thu [mới chớm]
Vàng quỳ đã nâu khô
Một mai nước cạn ao hồ
Sen bùn đóa hạ buồn trơ thu tàn
HXS 

Tuesday, September 16, 2025

ĐỌC ‘THÁNG NĂM LÀ MỘNG ĐANG ĐI’ CỦA NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH. ĐI GIỮA THỰC VÀ MƠ

San Phi
 
NTKM. Tác phẩm

1.  Khúc Lc Bát T Ơn
   Chữ dậy men hương ngọt còn đọng lại trên vân tay, tôi lạc bước vào thế giới thi ca của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Ở đó, mỗi cảm xúc tinh khôi là một dòng chảy ký ức, kiến tạo nên một vũ trụ nội tâm, nơi thời gian dường như ngưng đọng. Nơi trái tim nghe từng thớ sóng mơ, nơi vầng trăng soi rọi. Chị là một thi sĩ của tình yêu, của nỗi nhớ, và của những điều không thể gọi tên.
   Câu thơ mọc cánh rung động vô hình. Thơ của chị không được viết bằng mực, bằng giấy, mà bằng gió, bằng mây, bằng tia nắng lung linh trên tán lá. Hay những hạt sương đêm còn đọng lại trên cánh hoa, là những giấc mơ lãng đãng, những mối tình như dòng suối chảy lúc êm đềm, khi trào cuộn. 
    Chị thả hồn mình vào từng chữ, những câu chữ nhún nhảy biết nói bài thơ bỗng chốc nở hoa, để niềm vui mong manh trở nên thuần khiết. Chị yêu cái đẹp, dù đó là cái đẹp của hạnh phúc hay cái đẹp của sự tan vỡ.
 
    Lời ngỏ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là một sự tri ân sâu sắc, thể thơ lục bát đã gắn bó từ thuở ấu thơ, thấm đẫm trong tiềm thức và trở thành một phản xạ tự nhiên của cảm xúc. Lục bát được ví như “miếng cơm mớm” nuôi dưỡng tâm hồn, đồng hành cùng chị qua tháng năm.
    Trong lời ngỏ, tác giả cũng khẳng định sức quyến rũ riêng biệt của lục bát, dù mang vẻ đẹp chân phương như ca dao hay thâm trầm, sang trọng trong thi ca. Cuối cùng, tập thơ được gom lại như một món quà từ tấc lòng, tri ân đối với thể thơ truyền thống này.
    Trăng và nắng vẫn đi, “tôi” luyện giọt đời hư không thành lời chân thành. Với tinh thần tràn đầy lòng biết ơn, chị đã khiêm nhường dâng hiến mình cho thơ ca. Đây là một phần đặc biệt, của chùm thơ “Lục Bát Tạ Ơn”, gây ấn tượng mạnh mẽ với giọng điệu nữ tính và nhẹ nhàng. Chị đã dùng những hình ảnh gần gũi đến lạ, từ những điều nhỏ bé, để dệt nên một không gian thơ đầy chất mơ, khiến người đọc như nghe thấy tiếng lòng mình đang gọi.
    Những hình ảnh không cầu kỳ, rất chân thực, như một lời tâm tình nhỏ nhẹ. Mỗi bài thơ là lời cảm tạ chân thành với những điều tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại ý nghĩa vô cùng.
 
*Thiên nhiên: “giấy trắng mây,” “nắng trong,” “hạt sương,” “dòng sông trôi,” “mùa thu trổ sắc vàng.”
*Con người: “nụ cười,” “tiếng cười thân quen,” “vẫy tay,” “bước đi.”
*Quê hương: “thân cò lội,” “tàu lá chuối,” “gói xôi mẹ ủ,” “ruộng gầy,” “câu hò.”
 
    Chị biết ơn cuộc đời, thơ ca, văn học, lịch sử và tri kỷ: “Ơn ngày bao dung,” “Ơn nụ cười,” “Ơn trần gian,” “Ơn thơ,” “Ơn câu lục bát,” “Cảm xúc hóa sinh câu thơ,” “Ơn quê hương,” “Giờ học sử,” “Ơn thân cò lội” hay những bài thơ dành tặng bạn bè, những nhà văn, nhà thơ như Lê Phương Châu, Duyên, Du Tử Lê…
 
    Trong giấc tôi mơ giấc trôi… Hái trăng nhặt bóng nơi nghìn bước chân. Trong thơ chị hình ảnh vừa thực, vừa mơ: “giấc mây,” “mộng chân trời,” “xa gần mơ thực một ta.” Đó là một trạng thái tâm hồn tĩnh tại, lặng thinh giữa đêm sâu, nhưng lại dào dạt cảm xúc với chữ. Những hạt thơ chứa đựng bao mơ hồ, lửng lơ, nhưng lại vô cùng cuốn hút, một tâm hồn thanh tịnh. Điều này gợi nhớ đến lời Phật dạy về “Hiện Pháp Lạc Trú” mà chị đã đề cập: “Mộng đời bặt tiếng bi ai / Ta hay là giọng ngân dài? Hư vô…”
    Uyển chuyển, mềm mại giọng thơ, trang sách nở nụ biếc tơ chuông thầm thì. Tác phẩm lột trần trụi về niêm luật, đôi khi chỉ với 2-3 chữ mỗi câu, ngắt dòng đầy dụng ý như một tiếng thở dài, một khoảng lặng của cảm xúc, ví dụ: “Em đi / Em bước / Vô vàn / Thanh Lương.” Cách viết này tạo nên nhịp điệu riêng, thể hiện sự phóng khoáng trong tâm hồn người làm thơ. Từng con chữ thức giấc như lời thủ thỉ, tâm tình của một người nữ dịu dàng, tinh tế đang chiêm nghiệm cuộc đời, ngắm nhìn bầu trời tự do, cuốn đi những lớp áo lá và tự tìm cho mình câu trả lời.
Hôm qua hạt lệ thâu canh
Sang nay đọng lại trên cành, hạt sương
Hôm qua, lắm mộng đêm trường
Hôm nay ngơ ngác bên đường, bình minh
Hóa ra còn mặt đất xinh…
Hôm qua ngó lên trời xanh
Sợ cái mênh mông làm thành cỏ mộ
Hôm nay nhìn lên lần nữa
Mầu xanh ơi lộng gió lòng tôi
Ăn thua là ở nụ cười…
(Trích “Ơn Nụ Cười”)
    Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh một đêm dài thâu canh đầy nước mắt. Hạt nước cựa mình không tan biến mà đọng lại, hóa thành hạt sương trên cành lá. Nỗi buồn, sự đau khổ của đêm đi qua ánh chiều “lắng lọc” và trở nên tinh khiết, dịu dàng hơn khi ngày mới đến. “Hôm qua” là một đêm dài mệt mỏi với “lắm mộng đêm trường,” nhưng “hôm nay” thì mọi thứ đều nhẹ tênh, bình yên. Ta thấy một sự ngơ ngác đầy bất ngờ trước vẻ đẹp của buổi bình minh, khi mọi lo âu đã tan biến, nhường chỗ cho cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc khi nhận ra “còn mặt đất xinh” biết bao. “Hôm qua” là nỗi sợ hãi về sự mênh mông của trời xanh, sợ sẽ trở thành “cỏ mộ,” một biểu tượng của sự kết thúc. Nhưng “hôm nay,” khi nhìn lại, bầu trời xanh trở nên lộng gió. Và rồi, tất cả những uyển ngữ diệu kỳ dẫn đến một câu kết thật ngắn gọn mà sâu sắc: “Ăn thua là ở nụ cười.” […]
Mộng mị đôi lần cau mặt
Ngờ tang thương hóa bảy sắc cầu vồng
Nhạn chao một tiếng ngàn không
Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương
Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường
Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa
Dặm ngàn đổ lệ tài hoa
Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu…
(Trích “Dặm Thơ”)
 
    Câu thơ “mộng mị đôi lần cau mặt” và sau đó bất ngờ chuyển sang “tang thương hóa bảy sắc cầu vồng” phải chăng là sự chấp nhận, biến nỗi đau thành cái đẹp và hy vọng. Nỗi buồn của kẻ tha hương được lồng vào hình ảnh “nhạn chao một tiếng ngàn không” và “Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương,” gợi lên nỗi buồn sâu lắng của người con xa quê, hoài niệm về những điều đã cũ. Câu thơ “Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường / Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa” thể hiện sự thức tỉnh đột ngột, nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi, không thể quay lại được nữa. “Dặm ngàn đổ lệ tài hoa” và “Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu” là sự mất mát, nuối tiếc cho những điều đã qua, đã mãi mãi đi vào dĩ vãng.
 
Một ngàn sợi nắng vân vi
Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ
Em gọi anh là Giấc Mơ
Em gọi anh là bài thơ cuối cùng
Hỏi xem trời đất mung lung
Có ai ghi chữ thủy chung như vầy
Giấc Mơ là để vòng tay
Ta ôm cho trọn phút giây mộng gần
(Trích “Ơn Tóc Tơ”)
 
    Ngàn sợi nắng làm cho không gian trở nên lung linh. Những điều nhỏ bé và lớn lao đều xoay quanh một chữ “yêu.” “Em gọi anh là ‘Giấc Mơ,’ chỉ vì anh là tất cả mà em có, bởi vì anh là sự kết thúc ngọt ngào cho mọi kiếm tìm.” Anh chính là bến đỗ, là điểm đến cuối cùng. “Một ngàn sợi nắng vân vi / Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ” là một hình ảnh tài tình. Nắng, mây, và tóc tơ – những thứ mong manh nhất lại được buộc chặt bằng một chữ yêu, cho thấy tình yêu này không cần những lời thề non hẹn biển, mà đơn giản là sự gắn kết từ những điều dịu dàng nhất, bền chặt một cách tự nhiên như ngày mai mặt trời sẽ mọc. Khi em hỏi “Trời đất mung lung / Có ai ghi chữ thủy chung như vầy,” đó là một lời khẳng định. Giấc mơ ấy là có thật, được ôm anh, được sống trọn vẹn trong tình yêu. Đó là lời thủ thỉ của một trái tim đang yêu, trân trọng trong từng khoảnh khắc.
 
2.  V Đẹp Biến Tu Ca Thơ Lc Bát
    Những dòng thơ lục bát biến tấu của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trong phần hai “Đồng Dao Ta” mang một vẻ đẹp rất riêng, rất đỗi tinh tế. Chị như đang thêu dệt những mảnh lụa cảm xúc, mềm mại lại lấp lánh suy tư. Tôi cảm nhận được ngay sự uyển chuyển trong cách chị chơi đùa với vần, với nhịp. Vẫn là thể thơ lục bát truyền thống, nhưng qua bàn tay biến hóa, trở nên tự do hơn rất nhiều. Chị gọi đó là biến tấu, nhưng với tôi lại là một mê trận thực sự. Người đọc dễ dàng lạc lối bởi cách chị giăng bày những thủ pháp ẩn dụ siêu thực, kết hợp với thủ thuật thả chữ, nhả ý đầy tinh tế. Những bạn đọc mới lâu nay vẫn lân la với vần điệu khuôn sáo cũ. Điểm son là ý tưởng táo bạo mang đến cho người đọc cảm thức mới. Những câu thơ không đi theo lối mòn bởi quy tắc “sáu-tám” và kéo dài, đứt đoạn một cách ngẫu hứng mà vô cùng hợp lý, như những âm vực bất ngờ trong một bản nhạc. Sự biến tấu này là để tạo ra một không gian rộng mở cho cảm xúc, để mỗi từ, mỗi chữ đều có thể bung tỏa hết vẻ đẹp vốn có.
Trong “Nhịp xuân”, cái “nhịp đồng hoa em mẩy hạt” hay “hát thệ chiều em lẫy thắm tà buông” đều gợn lên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống. Hay trong “Quê cũ”, chỉ với những hình ảnh giản dị như “sân gạch,” “bóng rơi,” chị đã dậy khơi nỗi nhớ quê hương da diết.
 
“Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” có nhịp 2/4 (Đúng nơi / bóng ấy. / Tôi ngồi).
“Mỗi sáng trông lên biển trời. Quê cũ” có nhịp 3/3
 
    Câu sáu chữ và câu tám chữ, với vần điệu và thanh điệu không đồng thuận tuân theo quy tắc nhất định. Dấu chấm biến đổi linh hoạt tạo nên sự hòa hợp giữa cảm xúc bên trong và không gian bên ngoài, thể hiện sự tĩnh lặng, vừa mở ra tâm trạng hoài niệm, đau đáu khi hướng tầm mắt về phía biển trời quê hương. Câu thơ “Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” là một điểm nhấn quan trọng kết nối giữa thiên nhiên và con người. “Bóng ấy” chính là cái bóng của chủ thể, của “tôi,” gợi lên sự hiện hữu tĩnh lặng và khiêm nhường. Việc “tôi ngồi” đúng nơi cái bóng rơi xuống.
 
     Điều khiến thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trở nên đặc biệt hơn cả chính là những chiêm nghiệm triết học sâu sắc được lồng ghép một cách nhẹ nhàng. Chị thường đặt ra những câu hỏi về sự tồn tại, về cái tôi, tình yêu và duyên số.
“Chiều ngậm một nửa mặt trời / Nửa kia còn lại cho đời bình minh”
    Hình ảnh mặt trời chia đôi độc đáo và mang tính biểu đạt cao. Một nửa thuộc về chiều tà, gắn với sự tàn phai; nửa còn lại tiếp tục hành trình mang đến bình minh cho cuộc đời. Điều này thể hiện triết lý về sự tồn tại song song của hai thái cực đối lập trong cuộc sống: Niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và tuyệt vọng, ánh sáng và bóng tối. Cuộc sống luôn là sự đấu tranh giữa hai mặt này. Những câu thơ như “Trách chi cười nửa nụ cười” hay “Thốt nhiên còn một nửa tôi”, gợi lên sự mất mát. Cái triết lý ấy không hề nặng nề, khô khan mà thấm đẫm trong từng câu chữ, như những lời thủ thỉ tâm tình với chính mình và bạn đọc.
 
    Đặc biệt, trong “Đồng Dao Ta”, những câu thơ như “Cho ta giờ lại có mình” hay “Năm mười… ta trốn đi đâu” thể hiện một sự tự vấn nội tâm mạnh mẽ. Chị tìm kiếm sự hòa hợp, sự đủ đầy trong một thế giới đầy biến động. Và có lẽ, câu trả lời không phải là tìm kiếm ở đâu xa, mà là trở về với chính mình, chấp nhận “một” mình với ta để tìm thấy bình yên.
 
Hóa ra mình đã lạc nhau
Bao năm tìm bóng mà đâu với hình
Cho ta giờ lại có mình…
Ngồi xuống với nhau tình tự
Cõi buồn xưa nhập cõi chữ âm thầm
Tạ nhau, hai cõi tình thâm.
(Trích “Đồng Dao Ta”)
 
    Một tiếng thở dài đầy nuối tiếc, nhưng cũng là sự chấp nhận cái “lạc” – lạc về khoảng cách không gian và lạc lối của tâm hồn. Câu “lại có mình” ở đây thật quý giá, là sự trở về với chính mình, với những cảm xúc và ký ức sau bao năm xa cách. Ngồi xuống “tình tự” với nhau, đối diện với nỗi buồn, là “cõi buồn xưa” đã nhập vào “cõi chữ âm thầm” để trở thành chất liệu tạo nên những vần thơ. Cuối cùng, “Tạ nhau, hai cõi tình thâm” nghe nhẹ nhàng mà thanh thoát, êm dịu mà sâu sắc. Thơ là như phải thế, mang trong mình vẻ đẹp của sự uyển chuyển, của cảm xúc thuần khiết, để rồi lắng đọng sâu sắc.
    Với những biến tấu lục bát độc đáo, nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã mở ra một hướng đi mới cho thể thơ này, thể hiện sự sáng tạo không giới hạn. Dù cách tân về vần và nhịp, thơ của chị vẫn giữ được âm hưởng thiết tha, sâu lắng vốn có của thể thơ truyền thống, đồng thời hòa hợp một cách tự nhiên với tư duy thơ hiện đại.
 
3.  Cuộc Đối Thoại Với Thời Gian
    “Tháng Năm Là Mộng Đang Đi” không chỉ là một tựa đề mà còn là lời tự vấn xuyên suốt Phần Ba của tập thơ, nơi tác giả bóc tách từng lớp thời gian để tìm về một khái niệm trừu tượng: Liệu thời gian có phải là một thực thể sống động, có hình hài, có cảm xúc? Sự bám víu và trăn trở không ngừng ấy đã tạo nên một dòng chảy triết lý, kết nối những câu thơ đầy ám ảnh. Cảm xúc ấy rõ ràng nhất trong bài thơ:
Đâu ngờ thuở ấy mong manh
Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…
Nụ đơm từ buổi xuân thơ
Vàng hoa chín muộn. Bây giờ. Mới hay.
(Trích “Mùa Đi”)
     Câu “giật mình” khi “Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…” tạo ra một cú chạm cảm xúc mạnh mẽ. Đó là sự ngạc nhiên, sự thức tỉnh khi nhận ra những điều xưa cũ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Hình ảnh “Nụ đơm từ buổi xuân thơ / Vàng hoa chín muộn” là một ẩn dụ tuyệt vời. Những nụ hoa từ thuở ngây thơ, non dại giờ đây đã “chín muộn,” trở thành những đóa hoa vàng rực rỡ. Điều này gợi lên cảm giác về sự trưởng thành, về những giá trị của tuổi trẻ mà phải đến khi trải qua dặm dài cuộc sống, ta mới thực sự cảm nhận và thấu hiểu. Và rồi, cụm từ “Bây giờ. Mới hay” như một dấu chấm lửng đầy sức nặng. Nó khẳng định một sự thật, một bài học mà con người chỉ có thể hiểu được khi đã đi qua một chặng đường dài. Tôi chợt nhớ đến câu của triết gia La Mã Seneca. “Non exiguum temporis habemus, sed multum perdimus.”Câu này dịch ra tiếng Việt có nghĩa là: “Chúng ta không có ít thời gian, mà là chúng ta đã lãng phí rất nhiều.” Seneca nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Ông cho rằng con người thường lãng phí thời gian và chỉ nhận ra giá trị của nó khi đã muộn. Seneca khuyên chúng ta nên trân trọng hiện tại, vì quá khứ đã qua và tương lai thì chưa tới.
     Trong “Mùa Đi,” chị dường như đang trò chuyện cùng những mùa đã qua, từ “xuân thơ” đến “thu chín muộn,” từ “nắng hạ xưa” đến “mưa gió cũng dứt bài cuồng ca.” Sự luân chuyển của bốn mùa là sự thay đổi của thiên nhiên, cũng như sự dịch chuyển của lòng người, những kỷ niệm, của “nỗi đau sao vẫn như vừa chia xa.” Nỗi nhớ được cụ thể hóa thành “chiếc nôi nhà” trong “ba mươi còn giấu câu mừng,” và sự “lâng lâng” của thời gian thể hiện rõ trong “già thêm một tuổi đất tròn.”
 
Bóng vẫn thế
Đứng một mình
Làm như thể không có hình tôi xưa
Lạc vào một đêm mộng vừa
Gặp tôi
Bóng ngỡ
Tình cờ
Mộng du…
(Trích “Vẽ bóng”)
 
    Dưới ngòi bút của chị, “vẽ bóng” đưa ta vào một không gian đầy mơ hồ và suy tư, nơi ranh giới giữa thực và ảo trở nên mờ nhòe. “Bóng vẫn thế, đứng một mình” một nỗi cô đơn, một sự tồn tại tách biệt khỏi chính “tôi xưa” của nó. Cái bóng ở đây có thể là hình ảnh quá khứ, của những ký ức, hoặc thậm chí là một phần con người mà ta đã đánh mất.
    Sự trớ trêu của bài thơ nằm ở chỗ, cái bóng tưởng chừng như luôn gắn liền với chúng ta, nhưng lại không nhận ra “tôi” của hiện tại. Khi “lạc vào một đêm mộng vừa,” cái tôi hiện tại gặp lại cái bóng của chính mình trong quá khứ, nhưng cái bóng lại ngỡ là “tình cờ mộng du.” Điều này dường như đặt ra một câu hỏi day dứt: liệu chúng ta có thực sự hiểu và chấp nhận tất cả những phiên bản của chính mình qua từng giai đoạn của cuộc đời? Đó là một sự chiêm nghiệm lặng lẽ về bản ngã và sự dịch chuyển của thời gian.
    Sự phân thân giữa “tôi” và “bóng” tạo nên một không gian triết lý, nơi con người tự vấn về sự tồn tại. Những hình ảnh như “Bóng không đổ xuống, mà buông / Như chiếc lá đã kiệt hồn nhựa xanh...” hay “Ánh sáng làm mặt lạ tôi / Dường như cả cái chỗ ngồi lặng thinh” cho thấy một nỗi cô đơn sâu thẳm, một sự trốn chạy hay tìm kiếm bản thể đã bị lãng quên.
    Sự đối lập và hòa quyện giữa nội tâm và ngoại cảnh. Điều làm nên sức hấp dẫn của tập thơ chính là sự đan xen tài tình giữa thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh. Những hiện tượng của tự nhiên như nắng, mưa, gió, biển... là tấm gương phản chiếu tâm trạng. “Khát nắng. Nghe mưa dầm,” “Lúc mưa gió cũng dứt bài cuồng ca,” “Biển khuya khoắt thở, cây phiền muộn reo”. Lắng nghe hạt thơ khe khẽ trở mình tách vỏ, đánh thức những giấc mơ xanh, rồi dang đôi cánh bay. Thế giới nội tâm lại mở ra vô hạn.
     Gìn ký ức nơi bóng hình khao khát. Những cơn mơ ánh nắng vẽ nên một bức tranh đa chiều, vừa lãng mạn vừa thực tại. Mỗi câu chữ chạm vào thôi, đã bỏng rát. Mang trăn trở về thời gian, về những được mất, về những dấu vết cuộc đời đã bén rễ, cắm sâu vào lòng đất. Với giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại, nhưng lại có sức lay động mạnh, chị đã khiến người đọc phải dừng lại, lắng lòng và chiêm nghiệm về chính tâm hồn mình. Phần nào đó, chị đã thành công!
 
    Xin trân trọng cảm ơn tình văn nghệ mà nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã gửi gắm. Được cầm trên tay con tinh thần của chị, tôi cảm nhận tâm hồn được sự kết nối vô hình từ chữ nghĩa. Thi ca như một mối duyên, mỗi áng thơ được sinh ra đều từ một cuộc gặp gỡ định mệnh, và duyên thi ca giữa tôi và chị chính là một trong những cuộc gặp gỡ đẹp đẽ ấy.
 
SAN PHI
(Sài Gòn ngày 23 tháng 8 năm 2025).

 

Sunday, September 14, 2025

RABINDRANATH TAGORE VÀ TẬP THƠ HÁI QUẢ

Chân Đất
 
 
"Tôi đã biết vào một chiều ủ rũ nào đó
Mặt trời sẽ nói với tôi, lời từ biệt cuối cùng
Chú mục đồng vẫn thổi sáo dưới gốc đa
Còn trâu nghé vẫn gặm cỏ nơi sườn đồi thoai thoải
Khi ngày của tôi dần đi vào bóng tối
Tôi vẫn nguyện cầu để bản thân được biết
Trước khi mình đi hẳn, một lý do vì sao
Đất lại gọi tôi vào trong cánh tay bế bồng?
Xin hãy nói với tôi
Vì sao sự im lặng trong đêm thâu của đất
Lại kể tôi nghe câu chuyện dải ngân hà?
Và vì sao ánh sáng ban ngày của đất
Lại hôn lên tôi - nơi ý nghĩ nở hoa?
Trước lúc ra đi tôi vẫn muốn dừng lại
Chỉ vài giây thôi bản điệp khúc cuối cùng
Để bổ sung cho vẹn toàn bản nhạc
Xin đèn kia vẫn thắp để tôi nhìn thấy rõ
Mặt người
Đội chiếc vòng hoa được kết
Trên mái đầu như chiếc mũ hoàng vương"
                                       (Mùa hái quả, Tagore, 1916)
 
Đọc bài này, Chân Đất thấy cái chết được Tagore mô tả hết sức nên thơ và đầy nuối tiếc với vẻ đẹp cuộc sống, nên ông không thôi thưởng thức những ngày tháng tươi đẹp còn lại, khi mọi cảnh quan, âm thanh, con người hoạt động đều góp nhặt hết vào tầm mắt, và từ tình yêu cuộc đời này chuyển hóa thành những sáng tạo, làm cho cuộc đời trở nên trọn vẹn, ý nghĩa hơn. Đây là một trang thơ tình cờ Chân Đất lật được, cũng rất trùng hợp với những trải nghiệm sinh ly tử biệt của chúng tôi gần đây, cảm thấy thật may mắn khi được chia sẻ bởi một người cách mình hơn thế kỷ. Đó là món quà quý giá từ sách, phải không các bạn!
Mọi người yêu thích bài thơ nào của Tagore thì chia sẻ cho Chân Đất nhé!
—--
 
Mỗi tháng, chúng tôi sẽ chọn ngẫu nhiên các trang sách của một tác giả có sinh nhật vào tháng đó để chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin giới thiệu với các bạn Tác giả của Tháng: Rabindranath Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861, là một nhà thơ- nhạc sĩ, triết gia, nhà dân tộc chủ nghĩa người Ấn Độ được trao Giải Nobel Văn học năm 1913. Thơ Tagore nổi tiếng với ngôn ngữ nhẹ nhàng sâu lắng, giàu tính nhạc, là sự kết hợp hài hòa giữa tâm linh và tự nhiên. Bài thơ Mùa Hái Quả được Chân Đất trích trong Truyển tập thơ chọn lọc của Tagore. Xin chia sẻ đến các bạn!
 
RABINDRANATH TAGORE AND FRUIT GATHERING
"I know that at the dim end of some day the sun will bid me its farewell.
Shepherds will play their pipes beneath the banyan trees, and cattle graze on the slope by the river, while my days will pass into the dark.
This is my prayer, that I may know before I leave why the earth called me to her arms.
Why her night's silence spoke to me of stars, and her daylight kissed my thoughts into flower.
Before I go may I linger over my last refrain, completing its music, may the lamp be lit to see your face and the wreath woven to crown you."
Reading this poem, Chân Đất feels that Tagore portrays death in an incredibly poetic and wistful way, filled with a longing for life's beauty. Because of this, he cannot help but savor every remaining beautiful day - where every landscape, sound, and human activity gathers before his eyes. From this love of life springs creativity, making existence more complete and meaningful. This was a random page of poetry Chân Đất happened upon, and it coincidentally resonates deeply with our recent experiences of separation and loss. It feels like a blessing to share this connection with someone who lived over a century ago. Truly, this is the precious gift of books, don’t you think?
If you have a favorite Tagore poem, please share it with Chân Đất!
CHÂN ĐẤT LIVING ROOM - Existential Reading Room in Hoi An

  

CRAZY

Nguyên Yên

Minh họa. Đ. Trường Chinh

Crazy flower painting. By Elin Yeh
 
Điệu nhạc đơn độc trỗi dậy,
người ca sĩ giọng khàn đục cất cao tiếng hát mê hoặc
căn phòng tối chìm vào cung bậc
đâu đó trên môi, trong tóc
nụ hôn còn hồng da thịt
tiếng kèn đồng ngày nào thổi xuyên miền ký ức.
 
Đã có lần
bằng trái tim, bằng tấm lòng
chúng ta nhận ra nhau
choàng vai mơ thoát nỗi cô đơn  làm người
dang chân tham vọng mưu cầu hạnh phúc.
 
Đã có lần
anh cao hơn bầu trời,
em yêu anh hơn lòng mẹ yêu thai nhi.
 
Lắng nghe trái tim
thủ thỉ, rù rì
tình yêu một lần nào có thật
như tiếng hát bịn rịn bên tiếng đàn
nhập cùng âm điệu,
như chúng ta bên nhau
bằng xương bằng thịt, bằng hơi thở sự sống.
 
Điệu nhạc vẫn đơn độc trỗi dậy
ánh đèn màu hắc xanh xao phím đàn
người ca sĩ giọng khàn đục nhắm mắt cất cao tiếng hát
                                         "craaaazy..."
 
Đâu đó mù mịt trên trái đất này,
anh có nghe, có nhớ?
NGUYÊN YÊN
 
* Cuối tuần nghe Thương Linh hát bản "Crazy"
 

CHÍN. MỘT. MỘT

Lê Chiều Giang



Thiên hạ
Chẳng ai có nhà
Ta gọi khắp phương
Gọi thêm:
911
 
Đời im mọi tiếng nói
Ta hét cùng
Thinh không
Có chút gì rất mới
Trong lòng ta
điêu tàn
 
Thiên hạ biến đâu hết
Phố xá tan như sương
Ngồi bên vầng trăng trắng
Ta viết lời:
Cáo chung
 
Nét bút ta sắc như tranh vẽ
Biến mặt trời ra một bóng
Đêm.
LÊ CHIỀU GIANG 

KHI MÔ RẢNH ANH NHỚ VỀ THĂM HUẾ

Huỳnh Liễu Ngạn
 

Tranh Đinh Cường
 
khi mô rảnh anh nhớ về thăm huế
kẻo huế chờ cây khế ngọt rụng bông
bữa trước em có ngồi bên lu nước
con lăng quăng quẩy nhẹ chút tang bồng
 
bên bờ giếng thấy mùa thu chải tóc
từng chùm xanh lơ lửng giữa không trung
em với tay bẻ vài ba nhánh gãy
vai em gầy mưa giọt ước sau lưng
 
khi mô rảnh anh nhớ về thăm mẹ
mẹ chết rồi nhưng mẹ vẫn chờ mong
con mèo mun còn ngồi bên chái bếp
ngó mông lung từng đọt nắng xoay vòng
 
anh đi mãi mà trăng thì chưa rụng
biết khi mô ăn lại đọi canh bầu
tô cá kến kho nước màu ớt bột
lùa chén cơm húp cặn cả nỗi sầu
 
khi mô rảnh anh nhớ về thăm huế
thăm con đò mục rã ở ven sông
con nước lợ đã cạn dòng qua bến
có ai chờ ai đợi nữa mà trông
 
ừ thì rảnh anh sẽ về thăm huế
dù huế chừ đã khác với ngày xưa
đi không vững em dìu anh đi nhé
vịn vai cầu thương lại những cơn mưa.
20.8.2025
 
HUỲNH LIỄU NGẠN

Saturday, September 6, 2025

TRẦN MỘNG TÚ VÀ TAY ÁO KỲ ẢO

Nguyễn Thị Khánh Minh
 
Tác phẩm Trần Mộng Tú
 
   Nhan đề một tập thơ mới của nhà thơ Trần Mộng Tú, Thơ Trong Tay Áo, một tập thơ song ngữ Việt-Anh, phát hành năm 2025, được ra mắt trong không gian một căn phòng sáng, ấm, với những bức tranh của họa sĩ Nguyễn Trung, cùng bước ra vào nhẹ nhàng với nụ cười hiền của cô chủ nhà, nhà thơ trẻ Sông Văn. Một buổi chiều thơ sẽ lưu lại rất đẹp trong ký ức của thân hữu có mặt. *
    Nhan đề, lập tức như một tia chớp lóe trong tôi, câu hát gọi vợ của hoàng tử trong truyện cổ tích Tấm Cám, Vàng ảnh Vàng anh có phải vợ anh, chui vào tay áo. Khi hát gọi chàng giơ cánh tay áo rộng của mình ra, và dĩ nhiên, tôi nghĩ, cô Tấm đang ở trong hóa thân chim vàng anh kia hẳn phải theo tay áo chồng mà về, về nơi ấp ủ yêu thương, về nơi trú ngụ an toàn.  Lại nhớ ngày xưa, có ông quan vào triều dự tiệc, ông giấu thức ăn vào trong tay áo, vua thấy và hỏi, ông đáp, dạ thần có mẹ ở nhà… Thật là tay áo chở che cho lòng hiếu thảo. Thế thì tay áo ấy có phải là ẩn dụ cho nơi người ta muốn giấu vào, cất giữ những riêng tư, những thiết tha, cả niềm sầu buồn lẫn hạnh phúc – là Thơ – chẳng hạn, như nhà thơ Trần Mộng Tú? Hỏi, chị mỉm cười nhẹ…
Chị mở đầu tập thơ với hai câu:
Tôi giấu thơ vào trong tay áo
Thỉnh thoảng mang ra nếm một dòng
 
Ở một trang khác,
Đêm qua bắt được trong chăn
Câu thơ lục bát nằm nhầm gối tôi
(Lục bát đôi dòng, tr. 42)
 
Nghe sao trẻ trung đến vậy, Trần Mộng Tú ở tập thơ mới này mang nét hồn nhiên của một người già dặn trầm tư.  Niềm an bình trú ngụ trong thơ thong thả, giản dị. Ăn ngủ chí cốt với Thơ, phải chăng người tu Thơ? Nên theo ngày tháng Thơ đắc đạo.
Trong tay áo ấy chỉ có Thơ và thơ. Hãy nghe chị lôi từ ấy ra, thời gian, đất trời, bốn mùa, hoa lá chim chóc, và Anh.
 
NHỮNG SỢI THỜI GIAN BAY TRONG THƠ
   Có một nỗi hoài niệm, bàng bạc hầu hết trong tập thơ này, không phải là người sống với quá khứ, nhưng mỗi một cái khảy nào đó của tiếng đàn thiên nhiên là như đặt người thơ vào một nốt thời gian xưa cũ.
Con sóc cắn nát mùa đông
Đêm qua vừa nở một bông hoa quỳnh
Mùa Đông bỏ đi thật rồi
Áo len ai vắt cành sồi đêm qua
(Lục bát đôi dòng, tr. 44)
 
Con chim bói cá bay rồi
Bóng ai hắt xuống ngậm ngùi tà huy
(Lục bát đôi dòng, tr. 46)
 
   Quỳnh là lời chào đêm, cái vừa nở bù đắp cái khiếm khuyến của mùa Đông vừa bỏ theo con sóc. Dư ảnh mùa Đông là chiếc áo lẻ loi vắt trên cành sồi. Chim bay không để dấu nhưng có nỗi ngậm ngùi trong hoàng hôn. Một cái gì ra đi là có một cái để lại, sự liên tưởng rất bất ngờ như của dòng thơ Haiku, bắt gặp hầu như toàn bộ ở các bài thơ trong tập này. Đó là điều khiến người đọc thích thú và bị cuốn hút.
Thật xa về phố cũ
bỗng gặp lại mưa trưa
Khum lòng tay nhỏ hứng
được vốc tình ngày xưa
(Mưa xưa, tr. 30)
Có hai cặp: Phố cũ – Tình xưa, và Mưa trưa – Lòng tay.
Cặp quá khứ Phố cũ – Tình xưa chạm vào cặp hiện tại Mưa trưa – Lòng tay, thì tình xưa ấy đã theo mưa về hội ngộ với người rồi, ngẫu nhiên mà đủ cả nhân hòa địa lợi.
    Cũng vậy, ở đây, vẫn cặp quá khứ và hiện tại dẫn cảm xúc người đi, phải mà ngày qua và ngày nay có thể trôi song song thì hẳn bên cạnh con ngõ trong xóm, có cả con đường thanh xuân cho ta xưa và người xưa:
Tưởng rằng bước đã quen chân
Chông chênh vẫn lạc ngay trong xóm mình
Hóa ra chân vẫn đi tìm
con đường xưa với bóng hình người xưa
(Đi bộ trong xóm, tr. 34)
 
Nhịp đập của tim bao giờ cũng vẫn là ẩn dụ cho nhịp đập tình yêu:
Áo khăn về gọi mùa Đông
Tình yêu gọi ngực từ trăm năm về
Ngực trăm năm đã bỏ đi
Áo khăn Tình ấy còn gì chưa phai
(Áo khăn, tr. 38)
Cuộc trăm năm, kết thúc là bắt đầu… còn gì chưa phai, làm nhân làm duyên cho kiếp mai chăng?
 
   Bao nhiêu thời gian để tóc xanh theo gió qua hồ – đường đời? Và âm ba nào để tóc trần phai nhạt? Màu trắng của trang thơ là màu của tóc xanh xưa:
Nhờ gió mùa mang hộ
mái tóc xanh qua hồ
Gió vụng về đánh rớt
rơi trắng cả trang thơ
(Gió Mùa, tr. 10)
 
Cũng thế trong tiếng mưa này:
Những hạt mưa lên tiếng
gọi mãi sợi tóc về
Tóc đã đi theo nắng
mưa như lệ đỏ hoe
(Mưa, tr. 20)
   Tóc đi theo nắng, nắng nỏ cuộc đời, là tóc phai. Mưa gọi tóc về để níu lại dòng xanh. Cái thời gian dùng giằng giữa kẻ trung gian: hạt lệ đỏ hoe. Đỏ này có phải âm hưởng mùa hè, tôi hỏi vậy vì thơ Trần Mộng Tú thường xuyên có sự hiện diện của mùa, đặc biệt là mùa thu, nên cách dùng chữ và màu sắc, hình ảnh của chị chẳng phải là ngẫu nhiên.
    Sự cảm thụ thời gian được thể hiện hết sức hồn nhiên, tự nhiên, nên nó hết sức trẻ, cho dù sau nó là ẩn ý sự tàn phai:
Trong mơ thấy mình trẻ
thức dậy thấy mình già
Muốn nằm xuống mơ lại
trên gối tóc trắng phau
(Nằm mơ, tr. 24)
 
   Thơ là cách để chúng ta “nằm mơ lại”, gọi thanh xuân lại. Phải không nhà thơ?
Hôm nay và hôm qua cứ như mặt nhìn mặt, đôi giầy mới thắc mắc, Lớp thời gian nào không xóa được dấu chân xưa? Thương người đang ngồi đó nhìn quá khứ trên giờ phút đang trôi, và dấu giầy mới này lại tiếp tục trở thành xưa, quán tính của thời gian là vậy, nên chi bài thơ như một nụ cười mỉm, buồn.
Đôi giầy mới đặt bên thềm
Dấu chân năm ngoái trên hiên vẫn còn
(Lục bát đôi dòng, tr. 44)
 
   Ở đó, có khung cửa sổ để Ta vừa nhìn ra ngoài kia, vừa nhìn lại trong Ta. Tôi biết câu hỏi chỉ là dư âm của những điều đẹp đẽ mà thốt lên trong thoáng lá hoa đổi thay, không phải một mong cầu. Phật dạy, vạn pháp do duyên khởi nên vạn pháp đổi thay:
Nhìn ra vách đá bốn mùa
Bức tranh mưa nắng sáng trưa mỗi ngày
Lá hoa chim chóc đổi thay
Riêng Ta có phải Ta ngày cũ không
(Khung cửa sổ, tr. 36)
 
   Trong trôi đi của thời gian, Trần Mộng Tú ý thức rất rõ ràng, thời gian vừa là “giám khảo” vừa là bạn đồng hành, không biết có lúc nào người bạn ấy để chút lòng trắc ẩn lên những sợi tóc mỗi ngày mỗi phai xanh? Tôi nghĩ có, vì vậy Trần Mộng Tú mới có có Thơ, để thỏa hiệp với thời gian,
Tôi nhìn tôi trong gương
Hai tôi hay là một
Hai mặt đối mặt nhau
Thời gian làm giám khảo
(Trong gương, tr. 22)
 
   Tôi-thật trước gương với tôi-ảo phía bên kia, nhìn nhau, thời gian đứng về phía nào của ảo-thật này? Tôi thì mong giám khảo ấy chọn tôi-ảo kia để nó hứng chịu mọi tàn phai cho tôi-thật này. Quên đi hai-mà-một nhé.
   Tiếng ai gọi, tiếng gõ cửa, là những gợi hình rất gợi cảm thơ mộng về nỗi hoài mong, nó ẩn dụ trong sâu lắng một khắc khoải tìm về mình, nghe ngóng mình. Ai đó gõ, hay chính sự thổn thức của mình gõ, để rồi mênh mang cõi giới nội tâm cho mình đối mặt, Tú ơi… Không ai cả. Sợ quên nên gọi để tìm mình thôi:
Mình nhìn mình trong gương
Thấy một người vừa quen vừa lạ
Tiếng ai gọi, Tú Ơi
(Trong gương)
 
   Nhưng… có, mà hình như thôi. Cả cành mai nở chùm nước mắt kia vì người. Tất cả đều là mộng. Chỉ có nỗi buồn của người là đang hiện hữu. Nhưng hiện hữu ấy duyên khởi từ những hư ảo, nên nó cũng là bọt bóng thôi… “Hình như” ở đây nghe rất thầm dịu, bâng khuâng lúc hơi thở giao mùa của đất trời thổi qua tâm tư người:
Hình như tiếng ai gọi
Hình như ai cầm tay
Hình như cành hoa mai
Nở một chùm nước mắt
(Hoa tết, tr. 10)
 
Đập tay vào cánh cửa
gọi đêm ba mươi xưa
Cánh cửa im và lặng
Những ngón tay thở dài
(Đêm ba mươi, tr. 12)
 
   Gõ, gọi xong thì làm gì? Cánh cửa vừa được gõ, rồi sao? Cả hai đều im và lặng. Một nỗi chờ nằm trong tiếng thở dài của những ngón tay, e là dằng dặc, vì đêm ba mươi xưa biết nương vào cõi thời gian nào mà đi ngược lại cho người?
 
Cũng tâm thái ấy, ở bài thơ này,
Xuân sắp về tới nơi
không phải xuân cũ đâu
Xuân cũ mất hẳn rồi
Đây là người khách lạ
(Khách lạ, tr. 12)
 
   Cứ dặn đi dặn lại như thế, thầm thì, buồn buồn, nuối tiếc, hoài niệm, dường như không có tâm trạng nào nôn nao đón xuân mới và còn dè chừng, đây là người khách lạ, không biết người khách có gõ cửa?
Và rồi,
Cuối năm nhìn đồng hồ
Đợi một hồi chuông cuối vang lên
Tiếng cửa mở rất khẽ
(Tiếng cửa – ngoại tập)
    Có thể là bước về của người mình mong đợi, có thể là giờ phút khởi đầu của vòng mùa đang tới, nhưng trong nỗi đợi cô tịch của không khí Haiku này, đó là cánh cửa trái tim đang mở, đang trao nhau những tín hiệu, chỉ có họ mới hiểu với nhau trong khẽ khàng ấy.
 
NHỊP ĐẬP MÙA THU VÀ HƠI THỞ CỦA THƠ
    Vâng, Nhịp đập mùa thu chuyên chở hơi thở Thơ. Hay hơi thở Thơ sống bằng nhịp đập mùa Thu, đều mang lại hiệu quả cuối cùng là sự có mặt lộng lẫy của mùa Thu trong thơ.
     Như là nhà thơ luôn bị xao động bởi nhịp mùa thu. Sự xao động ấy làm nên thi pháp Trần Mộng Tú, cái cách nghe ngóng, nắm bắt ngay ý tưởng vừa thấy (Ưng tác như thị quán), diễn đạt lại nó bằng thơ, kết hợp rất bất ngờ giữa thiên nhiên và cảm xúc của Trần Mộng Tú rất gần với thi pháp Bashō. Mặc dù các bài thơ trong tập Thơ trong tay áo này, được viết theo thể bốn câu, nhưng không theo cách gieo vần của tứ tuyệt, chỉ là bốn câu buông thả, tự do, trực khởi, vừa đủ thời gian cho nhận xét tức thời và cảm xúc. Đặc biệt phần gây ngạc nhiên cho người đọc ở vào câu cuối bài, mang tính chất sáng tạo, đột phá, sự bật khởi rất bất ngờ, về chiều sâu tư tưởng, không gắng gỏi mà như thể tình cờ hốt thị.
   Trong những bài thơ mùa thu sau đây của Trần Mộng Tú, tôi nghĩ, ngẫu nhiên có âm hưởng tính kigo của Haiku. Mỗi haiku đều có kigo – từ ngữ gợi mùa. Thi pháp Bashō gắn mùa với kiếp người, lấy vòng tuần hoàn tự nhiên để phản chiếu cảm thức vô thường. Ở Trần Mộng Tú cũng thế, từ những chữ, hình ảnh, dù rất quen thuộc, của mùa thu, nhà thơ bật lên suy nghiệm về sự chóng vánh kiếp người, sự phôi phai bởi thời gian, mỗi bài thơ là mỗi cảnh giới Trần Mộng Tú sống từng khoảnh khắc, nói khác, là  tỉnh thức không nguôi về vô thường qua thi ngữ cùng thi ảnh, gợi nên những thao thức Thiền.
 
Lúc này, người đang ở phút giây nhìn lá rơi. Một, hai… người cứ bình an trụ đếm cho tới lúc buột ra: Mùa Thu!
 
Một chiếc lá vừa rơi
hai chiếc lá cùng rơi
Thôi em đừng ngờ vực
mùa Thu đến thật rồi
(Lá rơi, tr. 14)
 
Hạt nắng rơi rất tròn
trên chiếc lá phai xanh
Có con chim ngực đỏ
mổ hạt nắng rất nhanh
 
Hạt nắng vỡ làm đôi
một nửa còn trên lá
một nửa chim mang đi
Lá nghiêng mình ngơ ngác
hình như Thu đã về
(Hạt nắng, tr. 16)
 
   Nắng và chiếc lá có phải là ngẫu nhiên cho bao la đọng vào vòng tròn nhỏ xíu một hạt?
Để long lanh trong màu xanh phai. Một tác động mổ của chim, tròn kia vỡ. Sao lại vỡ đôi? Âm dương vô lượng đất trời lung linh trong hai nửa hạt nắng ấy? để khẽ khàng, hình như Thu… Tôi nghe cuộc đối thoại: – Sao mùa Thu về mà lòng người mênh mang thế? Lá hỏi. – Cũng hình như thôi…
Những sinh hoạt thường ngày của người và thiên nhiên như có một ăn khớp – duyên – có lẽ, người vừa bước qua thềm, nắng cũng vừa tới cửa, có nàng Tấm trong nhà thổi cơm, người không ngạc nhiên khi thấy mùa thu mãn khai cùng mùi cơm chín. Không khí bài thơ toát lên niềm vui an bần lạc đạo:
Chân bước qua thềm nhà
nắng cũng vào tới cửa
Nồi cơm ai vừa thổi
cùng chín với mùa Thu
(Thu tới, tr. 18)
 
   Sao nghe hoài tiếng gõ cửa, từ bất cứ nguồn cơn nào, từ hạt nắng vỡ, từ mùi cơm chín, từ tiếng chim mổ lạc loài trên mái? Mùa Thu cứ theo những âm vang đó se sẽ về, không ồn ào, đúng vào lời nhủ thầm của người:
Chim mổ trên mái nhà
nghe như tiếng gõ cửa
Ngập ngừng rồi bỏ đi
không phải đâu. Thu về
(Tiếng chim, tr. 20)
 
   Thay đổi và bất định là hai thuộc tính của đời sống và tâm người. Xuân Hạ Thu Đông là một vòng thời gian luôn luôn tiếp nối và thay đổi, thì hồi sinh hay băng giá cũng nằm trong dòng mộng ảo vô thường thôi:
Mùa Xuân tình mới bắt đầu
Mùa Hạ rám cánh con sâu ái tình
Tưởng rằng Thu sẽ hồi sinh
Mùa Đông ập tới ái tình đóng băng
(Đổi giờ, tr. 32)
    Một cảnh cô tịch đẹp đến nao lòng trong bài thơ Trăng, tôi nghĩ là trăng mùa thu, vì trăng thu mới có cái ánh sáng vô nhiễm và cái bóng lạ lùng trữ tình như thế này:
Người đàn bà thức dậy,
bỏ đi lúc mờ sương
Vết trũng trên mặt giường
còn ngập đầy bóng trăng
(Trăng, tr. 24)
    Nếu đâu lại vết trũng ấy và mảnh trăng trên cao kia thì, hai mà một đầy thơ mộng. Và cũng khiến bâng khuâng, ai là bóng trăng, ai là người đàn bà. Thi ảnh và thi ngữ hòa âm trong bốn câu tỏa ra vẻ đẹp tĩnh, cô quạnh, nơi sự vắng lặng trở thành không gian khơi gợi cho trực giác, cảm xúc.
 
ĐẠO VỢ CHỒNG TRONG NGỌT BÙI THƠ CA TRẦN MỘNG TÚ
   Có một đạo rất nhân ái, không thuyết giáo, mà đầy tính thuyết phục trong thơ Trần Mộng Tú, là Đạo Vợ Chồng, bởi tình yêu nuôi dưỡng thường trực mà nên đạo.
   Trần Mộng Tú thường dùng những đối cực, Buồn-Vui, Nhanh-Chậm, Nhỏ bé-Lớn lao, Tĩnh-Động, để ẩn dụ đến hạnh phúc, khổ đau, cùng tất cả những giá trị tinh thần cho cuộc sống đẹp. Và gần nhất, trên hết, cho nhân vật Anh của đời mình.
    Hãy nghe Thơ trong tay áo thổ lộ,
Mặt trời gay gắt quá
Nên không soi rõ em
Đốm lửa trong mắt anh
Một đời em soi suốt
(Mặt trời, tr. 22)
    Mặt trời và đốm lửa trong mắt anh, hai thể lượng tương phản, để rồi nàng kết cho mình một hình ảnh của tình yêu nương tựa và tin cậy.
Chẳng đọc được điều gì
ngoài màu đỏ im lặng
Chiếc lá ngậm câu Kinh
Tôi ngậm tên một người
(Chiếc lá, tr. 26)
    Chủ thể bài là Chiếc lá. Nhưng không chủ cho một hành động nào. Lặng lẽ, Kinh vô ngôn vô tự người thấy qua màu đỏ của chiếc lá. Một người trong tâm thức một người, cũng ngang ngửa với kinh của lá. Tâm hồn người mở rộng cho tương quan bình đẳng giữa người và vật.
    Và lạ thay bên cạnh những suy tư thời gian, lại nảy sinh ra được cái thấy trẻ trung như vầy, chỉ đơn giản, rửa mặt, nhưng mấy ai liên tưởng như thế ở mũi ốc đảo, biển mặt, bờ môi, lại có dấu tay ai ở đó như con thuyền để tình yêu neo mãi. Biến ngũ quan quen thuộc thành thi ảnh bất ngờ.
Buổi sáng rửa mặt chạm phải mũi
mới hay ốc đảo vẫn còn đây
Bao năm sóng vỗ trên biển mặt
Để lại bờ môi dấu tay ai
(Rửa mặt, tr. 28)
 
Và Tình Yêu là yếu tố làm nên cái nhìn hóm hỉnh và trữ tình trong thơ Trần Mộng Tú.
Cái ly cái muỗng nhìn nhau
cà phê buổi sáng giọt sầu đêm qua
Thôi thì pha cho loãng ra
chút ngọt chút đắng hai ta chia đều
(Cà phê sáng, tr. 34)
    Buổi sáng nào cũng cái ly, cái muỗng là hai ta với nhau, cà phê như có cả giọt buồn của những tháng ngày đọng lại. Rồi. Nó tỏa hương trong cái đẹp của đạo vợ chồng, chia sẻ ngọt bùi. Tôi cảm động tình tự thuần hậu này của Trần Mộng Tú, và cảm ơn cái “hai ta” vô cùng độ lượng cho trần gian lắm nỗi này.
Môi khô ghé xuống má nhăn
nở tung một đóa vĩnh hằng cho nhau
Mắt trong mắt thấy bể dâu
nhặt ra một chút bể dâu pha trà
(Pha trà, tr. 38)
Cà phê ơi cà phê ơi
Giọt ngọt giọt đắng em mời môi thơm
Ờ thì có giọt đắng hơn
Em nghiêng tách xuống rót buồn sang anh
(Cà phê, tr. 40)
Cà phê pha với chút đường
Em pha tôi với vết thương biết cười
(Lục bát đôi dòng, tr. 46)
 
    Vâng, bản chất nụ hôn trong đạo vợ chồng là đóa vĩnh hằng, hóa giải những vết thương trong tâm hồn và cuộc sống. Bể dâu cùng nhau trải qua nay là chất liệu để hương trà thời gian thêm đậm tình và nghĩa, người quân tử mãi là kẻ che chắn cho hồng nhan tri kỷ những buồn vui.
    Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến một Trần Mộng Tú nữa, trong bài viết cho con gái ngày cưới, câu kết vô cùng cảm động, con ơi, mẹ biết nhà trai đến rồi. Câu vừa bùng vỡ niềm vui con có nơi chốn khác để dấu yêu nương tựa, vừa lặng giấu nỗi buồn của mẹ xa con, con có một mái ấm khác để về.
 
MỘT VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH
    Trong tập thơ này có một bài rất buồn, cái buồn nhẫn nhịn, như một mặc cả buồn bã với nỗi đau, với số phận, bài thơ là một vệt sáng lóe lên của ký ức một thời tao loạn, Mùa xuân không còn là biểu hiện của sự bắt đầu một vòng mùa mới, nó được dùng để định nghĩa bằng sự sống sót của người về, đó mới là mùa xuân thật sự, và Trần Mộng Tú cũng khẳng định chỉ có sự sống sót ấy mới xóa được vết hằn chiến tranh. Nhân lên ngàn ngàn nỗi chờ mong ấy hẳn nghe được niềm bi ai của chinh phụ, góa phụ. Sống sót và súng đạn treo lơ lửng trên từng số phận con người thời chiến.
    Mong sao mùa xuân thật sự kia ghi tên người sống sót kéo dài mãi, dài mãi… Giọng thơ trầm, tĩnh, trên cả lòng tha thứ, làm tôi cảm động bần thần:
Nếu có một mùa xuân thật sự
em sẽ quên tất cả những mùa khác
Nếu anh còn sống sót trở về
em sẽ quên như chưa từng có chiến tranh
(Nếu, tr. 14)
 
Nhân đây, tôi nhắc đến một bài thơ rất nổi tiếng của Trần Mộng Tú viết về nỗi lòng người tử sĩ và người vợ góa tuổi hai mươi, nỗi đau nhói tim mà giọng thơ không hận thù, phe phái, chứng tỏ chị là người được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, đạo đức:
Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
 
Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
 
Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
 
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
 
Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
 
Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
 
Anh muôn vàn tạ lỗi 
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
(Quà tặng trong chiến tranh, Sài Gòn tháng 7/1969)
 
   Một bài thơ điển hình thời chiến trong dòng văn học 20 năm miền Nam Việt Nam. Đánh động lương tri về sự tàn nhẫn, phi lý của chiến tranh, đồng thời cả sự bé mọn của con người trong vòng xoáy lịch sử.  Một bài thơ có sức mạnh của lời kêu gọi Hòa Bình.
   Đã một thời có một Trần Mộng Tú như thế. Đọc để biết chị đã đi cùng với nỗi đau của mình như thế nào qua bao chặng thời gian.
   Để biết một ngày, những nỗi đau, những tao tát số phận trầm tích vào ký ức, như viên cuội dưới mặt hồ im. Và âm ba của trái tim dội lại trong tâm người, thành Thơ.
Viên sỏi chìm, mặt hồ im
Hình như tiếng sóng trong tim gọi đò
(Lục bát đôi dòng, tr. 46)
 
VÀ NGƯỜI VƯỢT QUA, VƯỢT QUA…
   Để chúng ta có được những giờ phút cùng nhà thơ, hưởng những cái đẹp của cuộc sống, hiểu sự trầm lắng điềm tĩnh mang nét thanh cao của Thiền, và biết sống trọn từng phút hiện tại trong thơ Trần Mộng Tú.
Sau mưa có một cầu vồng
Một chân nhúng ở dòng sông bên này
Chân kia nhúng ở trong mây
Giải mầu ngũ sắc trong tay ai cầm
(Cầu vồng, tr. 36)
   Bao la chứ ai nữa! Nhà thơ ơi, chắc nhờ hồn nhiên mơ mộng vậy mà những chiêm nghiệm về thời gian, về cái Ta của Trần Mộng Tú là quả của sự tỉnh thức.
Sáng nay ra phố gội đầu
Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa
    Ta là nhân chứng cho cuộc khóc thề giữa Mưa và Tóc. Thơ là một mỉm cười. Phố là không gian cho bốn kẻ mơ mộng. Phút sống tinh nghịch như thế là lúc biết mình đang sống, đang hưởng hết cái hiện tiền.
Lạ chưa trong tách nước trà
Múc lên được tiếng chim ca đầu ngày
(Lục bát đôi dòng, tr. 42)
 
   Tiếng chim này và mảnh trăng múc từ gàu nước của thiền ni xưa là một chăng? Bạn cứ thử đọc đi đọc lại cặp thơ này nhiều lần, bạn sẽ thấy như ngửi được mùi bình an thơ mộng của buổi sáng sớm, và tiếng chim ca từ tách nước trà mở ra sự gặp gỡ giữa khoảnh khắc hiện tại và vô tận.
    Cửa ngõ để đi vào mênh mông ấy, là ánh rằm, là bóng của trăng. Lúc nhớ ra đi tìm trăng thì cái bóng rằm của nó đã qua sông mất rồi. Người vùa vuột mất một ý thơ?
Nửa đêm thức dậy tìm trăng
Tung chăn, rằm đã qua sông mất rồi
(Lục bát đôi dòng, tr. 44)
 
    Đừng hỏi khi ra đi tôi sẽ đem theo gì, không gì hết. Tagore nói, tôi chỉ đem theo trái tim đầy mong đợi, dĩ nhiên, đối với tài hoa thơ Tagore, đó là trái tim thơ nhân ái. Còn ở đây, bạn nghe đi, trời ơi, tôi không thể tưởng tượng được cái gì nên thơ hơn, hồn hậu hơn và trữ tình hơn đến như thế: Em sẽ giấu thơ vào trong tóc:
Có người nói khi nằm trong đất
Da thịt tan nhưng tóc vẫn còn
Em sẽ giấu thơ vào trong tóc
Cho người cải táng được tay thơm
(Tay thơm, tr. 26)
 
    Để làm chi? Chỉ có thể nghĩ được rằng, để khi ngũ đại tan, còn chút thơ kia cho gió tỏa hương, và tôi nghĩ, cái nhân duyên Thơ người đem theo sẽ lại tiếp một cuộc sống khác, cũng đầy Thơ trong tay áo.
Trần Mộng Tú, tận lòng với tất cả, cuộc sống bên ngoài, và những hạnh phúc làm nên chị. Và trên hết, là Thơ.
    Thơ trong tay áo của chị là dấu ấn của từng khoảnh khắc tồn tại, nắm bắt sự giản dị thường ngày, mặt khác là đòn bẩy liên tưởng suy tư nội tâm. Thi pháp Trần Mộng Tú nghiêng về vẻ đẹp vừa giản dị, thanh sơ của thi từ, vừa gợi lên những cảm nhận sâu sắc về con người với những mối tương quan
Thơ Trần Mộng Tú – một không gian thẩm mỹ – cống hiến cho tâm hồn con người cái đẹp nguyên sơ, vốn đã bị hao mòn dần vì những điều phi nhân, phi nghĩa trong cuộc sống.
NTKM
Upland, Tháng 9- 2025
 
*Tập thơ được ra mắt trong buổi họp mặt thân hữu tổ chức tại nhà của nhà thơ Sông Văn, vừa để đón mừng anh chị Trần Mộng Tú từ Seatle tới CA, ngày Chủ Nhật 20/7/2025. Gồm các nhà thơ, nhà văn: Anh chị Trúc Chi-Đoan Thư, Đỗ Quý Toàn, Phạm Phú Minh, Trần Huy Bích, Búi Vĩnh Phúc, Trịnh Y Thư, Trần Chấn Trí, Đặng Thơ Thơ, Thụy Vi, Nina Hòa Bình Lê, Paulina Đàm, Yến Tuyết, Nguyễn Hoàng Nam… và một số văn hữu khác, rất tiếc, tôi chưa được quen…