Nguyễn
Thị Khánh Minh
Tác phẩm Trần Mộng Tú
Nhan đề một tập thơ mới của nhà thơ Trần Mộng
Tú, Thơ Trong Tay Áo, một tập thơ song ngữ Việt-Anh, phát hành năm 2025,
được ra mắt trong không gian một căn phòng sáng, ấm, với những bức tranh của họa
sĩ Nguyễn Trung, cùng bước ra vào nhẹ nhàng với nụ cười hiền của cô chủ nhà,
nhà thơ trẻ Sông Văn. Một buổi chiều thơ sẽ lưu lại rất đẹp trong ký ức của
thân hữu có mặt. *
Nhan đề, lập tức như một tia chớp lóe trong
tôi, câu hát gọi vợ của hoàng tử trong truyện cổ tích Tấm Cám, Vàng ảnh Vàng
anh có phải vợ anh, chui vào tay áo. Khi hát gọi chàng giơ cánh tay áo rộng của
mình ra, và dĩ nhiên, tôi nghĩ, cô Tấm đang ở trong hóa thân chim vàng anh kia
hẳn phải theo tay áo chồng mà về, về nơi ấp ủ yêu thương, về nơi trú ngụ an
toàn. Lại nhớ ngày xưa, có ông quan vào
triều dự tiệc, ông giấu thức ăn vào trong tay áo, vua thấy và hỏi, ông đáp, dạ
thần có mẹ ở nhà… Thật là tay áo chở che cho lòng hiếu thảo. Thế thì tay áo ấy
có phải là ẩn dụ cho nơi người ta muốn giấu vào, cất giữ những riêng tư, những
thiết tha, cả niềm sầu buồn lẫn hạnh phúc – là Thơ – chẳng hạn, như nhà thơ Trần
Mộng Tú? Hỏi, chị mỉm cười nhẹ…
Chị
mở đầu tập thơ với hai câu:
Tôi
giấu thơ vào trong tay áo
Thỉnh
thoảng mang ra nếm một dòng
Ở
một trang khác,
Đêm
qua bắt được trong chăn
Câu
thơ lục bát nằm nhầm gối tôi
(Lục
bát đôi dòng, tr. 42)
Nghe
sao trẻ trung đến vậy, Trần Mộng Tú ở tập thơ mới này mang nét hồn nhiên của một
người già dặn trầm tư. Niềm an bình trú
ngụ trong thơ thong thả, giản dị. Ăn ngủ chí cốt với Thơ, phải chăng người tu
Thơ? Nên theo ngày tháng Thơ đắc đạo.
Trong
tay áo ấy chỉ có Thơ và thơ. Hãy nghe chị lôi từ ấy ra, thời gian, đất trời, bốn
mùa, hoa lá chim chóc, và Anh.
NHỮNG
SỢI THỜI GIAN BAY TRONG THƠ
Có một nỗi hoài niệm, bàng bạc hầu hết trong
tập thơ này, không phải là người sống với quá khứ, nhưng mỗi một cái khảy nào
đó của tiếng đàn thiên nhiên là như đặt người thơ vào một nốt thời gian xưa cũ.
Con
sóc cắn nát mùa đông
Đêm
qua vừa nở một bông hoa quỳnh
…
Mùa
Đông bỏ đi thật rồi
Áo
len ai vắt cành sồi đêm qua
(Lục
bát đôi dòng, tr. 44)
Con
chim bói cá bay rồi
Bóng
ai hắt xuống ngậm ngùi tà huy
(Lục
bát đôi dòng, tr. 46)
Quỳnh là lời chào đêm, cái vừa nở bù đắp cái
khiếm khuyến của mùa Đông vừa bỏ theo con sóc. Dư ảnh mùa Đông là chiếc áo lẻ
loi vắt trên cành sồi. Chim bay không để dấu nhưng có nỗi ngậm ngùi trong hoàng
hôn. Một cái gì ra đi là có một cái để lại, sự liên tưởng rất bất ngờ như của
dòng thơ Haiku, bắt gặp hầu như toàn bộ ở các bài thơ trong tập này. Đó là điều
khiến người đọc thích thú và bị cuốn hút.
Thật
xa về phố cũ
bỗng
gặp lại mưa trưa
Khum
lòng tay nhỏ hứng
được
vốc tình ngày xưa
(Mưa
xưa, tr. 30)
Có
hai cặp: Phố cũ – Tình xưa, và Mưa trưa – Lòng tay.
Cặp
quá khứ Phố cũ – Tình xưa chạm vào cặp hiện tại Mưa trưa – Lòng tay, thì tình
xưa ấy đã theo mưa về hội ngộ với người rồi, ngẫu nhiên mà đủ cả nhân hòa địa lợi.
Cũng vậy, ở đây, vẫn cặp quá khứ và hiện tại
dẫn cảm xúc người đi, phải mà ngày qua và ngày nay có thể trôi song song thì hẳn
bên cạnh con ngõ trong xóm, có cả con đường thanh xuân cho ta xưa và người xưa:
Tưởng
rằng bước đã quen chân
Chông
chênh vẫn lạc ngay trong xóm mình
Hóa
ra chân vẫn đi tìm
con
đường xưa với bóng hình người xưa
(Đi
bộ trong xóm, tr. 34)
Nhịp
đập của tim bao giờ cũng vẫn là ẩn dụ cho nhịp đập tình yêu:
Áo
khăn về gọi mùa Đông
Tình
yêu gọi ngực từ trăm năm về
Ngực
trăm năm đã bỏ đi
Áo
khăn Tình ấy còn gì chưa phai
(Áo
khăn, tr. 38)
Cuộc
trăm năm, kết thúc là bắt đầu… còn gì chưa phai, làm nhân làm duyên cho kiếp
mai chăng?
Bao nhiêu thời gian để tóc xanh theo gió qua
hồ – đường đời? Và âm ba nào để tóc trần phai nhạt? Màu trắng của trang thơ là
màu của tóc xanh xưa:
Nhờ
gió mùa mang hộ
mái
tóc xanh qua hồ
Gió
vụng về đánh rớt
rơi
trắng cả trang thơ
(Gió
Mùa, tr. 10)
Cũng
thế trong tiếng mưa này:
Những
hạt mưa lên tiếng
gọi
mãi sợi tóc về
Tóc
đã đi theo nắng
mưa
như lệ đỏ hoe
(Mưa,
tr. 20)
Tóc đi theo nắng, nắng nỏ cuộc đời, là tóc
phai. Mưa gọi tóc về để níu lại dòng xanh. Cái thời gian dùng giằng giữa kẻ
trung gian: hạt lệ đỏ hoe. Đỏ này có phải âm hưởng mùa hè, tôi hỏi vậy vì thơ
Trần Mộng Tú thường xuyên có sự hiện diện của mùa, đặc biệt là mùa thu, nên
cách dùng chữ và màu sắc, hình ảnh của chị chẳng phải là ngẫu nhiên.
Sự cảm thụ thời gian được thể hiện hết sức
hồn nhiên, tự nhiên, nên nó hết sức trẻ, cho dù sau nó là ẩn ý sự tàn phai:
Trong
mơ thấy mình trẻ
thức
dậy thấy mình già
Muốn
nằm xuống mơ lại
trên
gối tóc trắng phau
(Nằm
mơ, tr. 24)
Thơ là cách để chúng ta “nằm mơ lại”, gọi
thanh xuân lại. Phải không nhà thơ?
Hôm
nay và hôm qua cứ như mặt nhìn mặt, đôi giầy mới thắc mắc, Lớp thời gian nào
không xóa được dấu chân xưa? Thương người đang ngồi đó nhìn quá khứ trên giờ
phút đang trôi, và dấu giầy mới này lại tiếp tục trở thành xưa, quán tính của
thời gian là vậy, nên chi bài thơ như một nụ cười mỉm, buồn.
Đôi
giầy mới đặt bên thềm
Dấu
chân năm ngoái trên hiên vẫn còn
(Lục
bát đôi dòng, tr. 44)
Ở đó, có khung cửa sổ để Ta vừa nhìn ra
ngoài kia, vừa nhìn lại trong Ta. Tôi biết câu hỏi chỉ là dư âm của những điều
đẹp đẽ mà thốt lên trong thoáng lá hoa đổi thay, không phải một mong cầu. Phật
dạy, vạn pháp do duyên khởi nên vạn pháp đổi thay:
Nhìn
ra vách đá bốn mùa
Bức
tranh mưa nắng sáng trưa mỗi ngày
Lá
hoa chim chóc đổi thay
Riêng
Ta có phải Ta ngày cũ không
(Khung
cửa sổ, tr. 36)
Trong trôi đi của thời gian, Trần Mộng Tú ý
thức rất rõ ràng, thời gian vừa là “giám khảo” vừa là bạn đồng hành, không biết
có lúc nào người bạn ấy để chút lòng trắc ẩn lên những sợi tóc mỗi ngày mỗi
phai xanh? Tôi nghĩ có, vì vậy Trần Mộng Tú mới có có Thơ, để thỏa hiệp với thời
gian,
Tôi
nhìn tôi trong gương
Hai
tôi hay là một
Hai
mặt đối mặt nhau
Thời
gian làm giám khảo
(Trong
gương, tr. 22)
Tôi-thật trước gương với tôi-ảo phía bên
kia, nhìn nhau, thời gian đứng về phía nào của ảo-thật này? Tôi thì mong giám
khảo ấy chọn tôi-ảo kia để nó hứng chịu mọi tàn phai cho tôi-thật này. Quên đi
hai-mà-một nhé.
Tiếng ai gọi, tiếng gõ cửa, là những gợi
hình rất gợi cảm thơ mộng về nỗi hoài mong, nó ẩn dụ trong sâu lắng một khắc
khoải tìm về mình, nghe ngóng mình. Ai đó gõ, hay chính sự thổn thức của mình
gõ, để rồi mênh mang cõi giới nội tâm cho mình đối mặt, Tú ơi… Không ai cả. Sợ
quên nên gọi để tìm mình thôi:
Mình
nhìn mình trong gương
Thấy
một người vừa quen vừa lạ
Tiếng
ai gọi, Tú Ơi
(Trong
gương)
Nhưng… có, mà hình như thôi. Cả cành mai nở
chùm nước mắt kia vì người. Tất cả đều là mộng. Chỉ có nỗi buồn của người là
đang hiện hữu. Nhưng hiện hữu ấy duyên khởi từ những hư ảo, nên nó cũng là bọt
bóng thôi… “Hình như” ở đây nghe rất thầm dịu, bâng khuâng lúc hơi thở giao mùa
của đất trời thổi qua tâm tư người:
Hình
như tiếng ai gọi
Hình
như ai cầm tay
Hình
như cành hoa mai
Nở
một chùm nước mắt
(Hoa
tết, tr. 10)
Đập
tay vào cánh cửa
gọi
đêm ba mươi xưa
Cánh
cửa im và lặng
Những
ngón tay thở dài
(Đêm
ba mươi, tr. 12)
Gõ, gọi xong thì làm gì? Cánh cửa vừa được
gõ, rồi sao? Cả hai đều im và lặng. Một nỗi chờ nằm trong tiếng thở dài của những
ngón tay, e là dằng dặc, vì đêm ba mươi xưa biết nương vào cõi thời gian nào mà
đi ngược lại cho người?
Cũng
tâm thái ấy, ở bài thơ này,
Xuân
sắp về tới nơi
không
phải xuân cũ đâu
Xuân
cũ mất hẳn rồi
Đây
là người khách lạ
(Khách
lạ, tr. 12)
Cứ dặn đi dặn lại như thế, thầm thì, buồn buồn,
nuối tiếc, hoài niệm, dường như không có tâm trạng nào nôn nao đón xuân mới và
còn dè chừng, đây là người khách lạ, không biết người khách có gõ cửa?
Và
rồi,
Cuối
năm nhìn đồng hồ
Đợi
một hồi chuông cuối vang lên
Tiếng
cửa mở rất khẽ
(Tiếng
cửa – ngoại tập)
Có thể là bước về của người mình mong đợi,
có thể là giờ phút khởi đầu của vòng mùa đang tới, nhưng trong nỗi đợi cô tịch
của không khí Haiku này, đó là cánh cửa trái tim đang mở, đang trao nhau những
tín hiệu, chỉ có họ mới hiểu với nhau trong khẽ khàng ấy.
NHỊP
ĐẬP MÙA THU VÀ HƠI THỞ CỦA THƠ
Vâng, Nhịp đập mùa thu chuyên chở hơi thở
Thơ. Hay hơi thở Thơ sống bằng nhịp đập mùa Thu, đều mang lại hiệu quả cuối
cùng là sự có mặt lộng lẫy của mùa Thu trong thơ.
Như là nhà thơ luôn bị xao động bởi nhịp
mùa thu. Sự xao động ấy làm nên thi pháp Trần Mộng Tú, cái cách nghe ngóng, nắm
bắt ngay ý tưởng vừa thấy (Ưng tác như thị quán), diễn đạt lại nó bằng thơ, kết
hợp rất bất ngờ giữa thiên nhiên và cảm xúc của Trần Mộng Tú rất gần với thi
pháp Bashō. Mặc dù các bài thơ trong tập Thơ trong tay áo này, được viết theo
thể bốn câu, nhưng không theo cách gieo vần của tứ tuyệt, chỉ là bốn câu buông
thả, tự do, trực khởi, vừa đủ thời gian cho nhận xét tức thời và cảm xúc. Đặc
biệt phần gây ngạc nhiên cho người đọc ở vào câu cuối bài, mang tính chất sáng
tạo, đột phá, sự bật khởi rất bất ngờ, về chiều sâu tư tưởng, không gắng gỏi mà
như thể tình cờ hốt thị.
Trong những bài thơ mùa thu sau đây của Trần
Mộng Tú, tôi nghĩ, ngẫu nhiên có âm hưởng tính kigo của Haiku. Mỗi haiku đều có
kigo – từ ngữ gợi mùa. Thi pháp Bashō gắn mùa với kiếp người, lấy vòng tuần
hoàn tự nhiên để phản chiếu cảm thức vô thường. Ở Trần Mộng Tú cũng thế, từ những
chữ, hình ảnh, dù rất quen thuộc, của mùa thu, nhà thơ bật lên suy nghiệm về sự
chóng vánh kiếp người, sự phôi phai bởi thời gian, mỗi bài thơ là mỗi cảnh giới
Trần Mộng Tú sống từng khoảnh khắc, nói khác, là tỉnh thức không nguôi về vô thường qua thi ngữ
cùng thi ảnh, gợi nên những thao thức Thiền.
Lúc
này, người đang ở phút giây nhìn lá rơi. Một, hai… người cứ bình an trụ đếm cho
tới lúc buột ra: Mùa Thu!
Một
chiếc lá vừa rơi
hai
chiếc lá cùng rơi
Thôi
em đừng ngờ vực
mùa
Thu đến thật rồi
(Lá
rơi, tr. 14)
Hạt
nắng rơi rất tròn
trên
chiếc lá phai xanh
Có
con chim ngực đỏ
mổ
hạt nắng rất nhanh
Hạt
nắng vỡ làm đôi
một
nửa còn trên lá
một
nửa chim mang đi
Lá
nghiêng mình ngơ ngác
hình
như Thu đã về
(Hạt
nắng, tr. 16)
Nắng và chiếc lá có phải là ngẫu nhiên cho
bao la đọng vào vòng tròn nhỏ xíu một hạt?
Để
long lanh trong màu xanh phai. Một tác động mổ của chim, tròn kia vỡ. Sao lại vỡ
đôi? Âm dương vô lượng đất trời lung linh trong hai nửa hạt nắng ấy? để khẽ
khàng, hình như Thu… Tôi nghe cuộc đối thoại: – Sao mùa Thu về mà lòng người
mênh mang thế? Lá hỏi. – Cũng hình như thôi…
Những
sinh hoạt thường ngày của người và thiên nhiên như có một ăn khớp – duyên – có
lẽ, người vừa bước qua thềm, nắng cũng vừa tới cửa, có nàng Tấm trong nhà thổi
cơm, người không ngạc nhiên khi thấy mùa thu mãn khai cùng mùi cơm chín. Không
khí bài thơ toát lên niềm vui an bần lạc đạo:
Chân
bước qua thềm nhà
nắng
cũng vào tới cửa
Nồi
cơm ai vừa thổi
cùng
chín với mùa Thu
(Thu
tới, tr. 18)
Sao nghe hoài tiếng gõ cửa, từ bất cứ nguồn
cơn nào, từ hạt nắng vỡ, từ mùi cơm chín, từ tiếng chim mổ lạc loài trên mái?
Mùa Thu cứ theo những âm vang đó se sẽ về, không ồn ào, đúng vào lời nhủ thầm của
người:
Chim
mổ trên mái nhà
nghe
như tiếng gõ cửa
Ngập
ngừng rồi bỏ đi
không
phải đâu. Thu về
(Tiếng
chim, tr. 20)
Thay đổi và bất định là hai thuộc tính của đời
sống và tâm người. Xuân Hạ Thu Đông là một vòng thời gian luôn luôn tiếp nối và
thay đổi, thì hồi sinh hay băng giá cũng nằm trong dòng mộng ảo vô thường thôi:
Mùa
Xuân tình mới bắt đầu
Mùa
Hạ rám cánh con sâu ái tình
Tưởng
rằng Thu sẽ hồi sinh
Mùa
Đông ập tới ái tình đóng băng
(Đổi
giờ, tr. 32)
Một cảnh cô tịch đẹp đến nao lòng trong bài
thơ Trăng, tôi nghĩ là trăng mùa thu, vì trăng thu mới có cái ánh sáng vô nhiễm
và cái bóng lạ lùng trữ tình như thế này:
Người
đàn bà thức dậy,
bỏ
đi lúc mờ sương
Vết
trũng trên mặt giường
còn
ngập đầy bóng trăng
(Trăng,
tr. 24)
Nếu đâu lại vết trũng ấy và mảnh trăng trên
cao kia thì, hai mà một đầy thơ mộng. Và cũng khiến bâng khuâng, ai là bóng
trăng, ai là người đàn bà. Thi ảnh và thi ngữ hòa âm trong bốn câu tỏa ra vẻ đẹp
tĩnh, cô quạnh, nơi sự vắng lặng trở thành không gian khơi gợi cho trực giác, cảm
xúc.
ĐẠO
VỢ CHỒNG TRONG NGỌT BÙI THƠ CA TRẦN MỘNG TÚ
Có một đạo rất nhân ái, không thuyết giáo,
mà đầy tính thuyết phục trong thơ Trần Mộng Tú, là Đạo Vợ Chồng, bởi tình yêu
nuôi dưỡng thường trực mà nên đạo.
Trần Mộng Tú thường dùng những đối cực, Buồn-Vui,
Nhanh-Chậm, Nhỏ bé-Lớn lao, Tĩnh-Động, để ẩn dụ đến hạnh phúc, khổ đau, cùng tất
cả những giá trị tinh thần cho cuộc sống đẹp. Và gần nhất, trên hết, cho nhân vật
Anh của đời mình.
Hãy nghe Thơ trong tay áo thổ lộ,
Mặt
trời gay gắt quá
Nên
không soi rõ em
Đốm
lửa trong mắt anh
Một
đời em soi suốt
(Mặt
trời, tr. 22)
Mặt trời và đốm lửa trong mắt anh, hai thể
lượng tương phản, để rồi nàng kết cho mình một hình ảnh của tình yêu nương tựa
và tin cậy.
Chẳng
đọc được điều gì
ngoài
màu đỏ im lặng
Chiếc
lá ngậm câu Kinh
Tôi
ngậm tên một người
(Chiếc
lá, tr. 26)
Chủ thể bài là Chiếc lá. Nhưng không chủ
cho một hành động nào. Lặng lẽ, Kinh vô ngôn vô tự người thấy qua màu đỏ của
chiếc lá. Một người trong tâm thức một người, cũng ngang ngửa với kinh của lá.
Tâm hồn người mở rộng cho tương quan bình đẳng giữa người và vật.
Và lạ thay bên cạnh những suy tư thời gian,
lại nảy sinh ra được cái thấy trẻ trung như vầy, chỉ đơn giản, rửa mặt, nhưng mấy
ai liên tưởng như thế ở mũi ốc đảo, biển mặt, bờ môi, lại có dấu tay ai ở đó
như con thuyền để tình yêu neo mãi. Biến ngũ quan quen thuộc thành thi ảnh bất
ngờ.
Buổi
sáng rửa mặt chạm phải mũi
mới
hay ốc đảo vẫn còn đây
Bao
năm sóng vỗ trên biển mặt
Để
lại bờ môi dấu tay ai
(Rửa
mặt, tr. 28)
Và
Tình Yêu là yếu tố làm nên cái nhìn hóm hỉnh và trữ tình trong thơ Trần Mộng
Tú.
Cái
ly cái muỗng nhìn nhau
cà
phê buổi sáng giọt sầu đêm qua
Thôi
thì pha cho loãng ra
chút
ngọt chút đắng hai ta chia đều
(Cà
phê sáng, tr. 34)
Buổi sáng nào cũng cái ly, cái muỗng là hai
ta với nhau, cà phê như có cả giọt buồn của những tháng ngày đọng lại. Rồi. Nó
tỏa hương trong cái đẹp của đạo vợ chồng, chia sẻ ngọt bùi. Tôi cảm động tình tự
thuần hậu này của Trần Mộng Tú, và cảm ơn cái “hai ta” vô cùng độ lượng cho trần
gian lắm nỗi này.
Môi
khô ghé xuống má nhăn
nở
tung một đóa vĩnh hằng cho nhau
Mắt
trong mắt thấy bể dâu
nhặt
ra một chút bể dâu pha trà
(Pha
trà, tr. 38)
Cà
phê ơi cà phê ơi
Giọt
ngọt giọt đắng em mời môi thơm
Ờ
thì có giọt đắng hơn
Em
nghiêng tách xuống rót buồn sang anh
(Cà
phê, tr. 40)
Cà
phê pha với chút đường
Em
pha tôi với vết thương biết cười
(Lục
bát đôi dòng, tr. 46)
Vâng, bản chất nụ hôn trong đạo vợ chồng là
đóa vĩnh hằng, hóa giải những vết thương trong tâm hồn và cuộc sống. Bể dâu
cùng nhau trải qua nay là chất liệu để hương trà thời gian thêm đậm tình và
nghĩa, người quân tử mãi là kẻ che chắn cho hồng nhan tri kỷ những buồn vui.
Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến một Trần Mộng
Tú nữa, trong bài viết cho con gái ngày cưới, câu kết vô cùng cảm động, con ơi,
mẹ biết nhà trai đến rồi. Câu vừa bùng vỡ niềm vui con có nơi chốn khác để dấu
yêu nương tựa, vừa lặng giấu nỗi buồn của mẹ xa con, con có một mái ấm khác để
về.
MỘT
VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH
Trong tập thơ này có một bài rất buồn, cái
buồn nhẫn nhịn, như một mặc cả buồn bã với nỗi đau, với số phận, bài thơ là một
vệt sáng lóe lên của ký ức một thời tao loạn, Mùa xuân không còn là biểu hiện của
sự bắt đầu một vòng mùa mới, nó được dùng để định nghĩa bằng sự sống sót của
người về, đó mới là mùa xuân thật sự, và Trần Mộng Tú cũng khẳng định chỉ có sự
sống sót ấy mới xóa được vết hằn chiến tranh. Nhân lên ngàn ngàn nỗi chờ mong ấy
hẳn nghe được niềm bi ai của chinh phụ, góa phụ. Sống sót và súng đạn treo lơ lửng
trên từng số phận con người thời chiến.
Mong sao mùa xuân thật sự kia ghi tên người
sống sót kéo dài mãi, dài mãi… Giọng thơ trầm, tĩnh, trên cả lòng tha thứ, làm
tôi cảm động bần thần:
Nếu
có một mùa xuân thật sự
em
sẽ quên tất cả những mùa khác
Nếu
anh còn sống sót trở về
em
sẽ quên như chưa từng có chiến tranh
(Nếu,
tr. 14)
Nhân
đây, tôi nhắc đến một bài thơ rất nổi tiếng của Trần Mộng Tú viết về nỗi lòng
người tử sĩ và người vợ góa tuổi hai mươi, nỗi đau nhói tim mà giọng thơ không
hận thù, phe phái, chứng tỏ chị là người được thừa hưởng một nền giáo dục nhân
bản, đạo đức:
Em
tặng anh hoa hồng
Chôn
trong lòng huyệt mới
Em
tặng anh áo cưới
Phủ
trên nấm mồ xanh
Anh
tặng em bội tinh
Kèm
với ngôi sao bạc
Chiếc
hoa mai màu vàng
Chưa
đeo còn sáng bóng
Em
tặng anh tuổi ngọc
Của
những ngày yêu nhau
Đã
chết ngay từ lúc
Em
nhận được tin sầu
Anh
tặng em mùi máu
Trên
áo trận sa trường
Máu
anh và máu địch
Xin
em cùng xót thương
Em
tặng anh mây vương
Mắt
em ngày tháng hạ
Em
tặng anh đông giá
Giữa
tuổi xuân cuộc đời
Anh
tặng môi không cười
Anh
tặng tay không nắm
Anh
tặng mắt không nhìn
Một
hình hài bất động
Anh
muôn vàn tạ lỗi
Xin
hẹn em kiếp sau
Mảnh
đạn này em giữ
Làm
di vật tìm nhau.
(Quà
tặng trong chiến tranh, Sài Gòn tháng 7/1969)
Một bài thơ điển hình thời chiến trong dòng
văn học 20 năm miền Nam Việt Nam. Đánh động lương tri về sự tàn nhẫn, phi lý của
chiến tranh, đồng thời cả sự bé mọn của con người trong vòng xoáy lịch sử. Một bài thơ có sức mạnh của lời kêu gọi Hòa
Bình.
Đã một thời có một Trần Mộng Tú như thế. Đọc
để biết chị đã đi cùng với nỗi đau của mình như thế nào qua bao chặng thời
gian.
Để biết một ngày, những nỗi đau, những tao
tát số phận trầm tích vào ký ức, như viên cuội dưới mặt hồ im. Và âm ba của
trái tim dội lại trong tâm người, thành Thơ.
Viên
sỏi chìm, mặt hồ im
Hình
như tiếng sóng trong tim gọi đò
(Lục
bát đôi dòng, tr. 46)
VÀ
NGƯỜI VƯỢT QUA, VƯỢT QUA…
Để chúng ta có được những giờ phút cùng nhà
thơ, hưởng những cái đẹp của cuộc sống, hiểu sự trầm lắng điềm tĩnh mang nét
thanh cao của Thiền, và biết sống trọn từng phút hiện tại trong thơ Trần Mộng
Tú.
Sau
mưa có một cầu vồng
Một
chân nhúng ở dòng sông bên này
Chân
kia nhúng ở trong mây
Giải
mầu ngũ sắc trong tay ai cầm
(Cầu
vồng, tr. 36)
Bao la chứ ai nữa! Nhà thơ ơi, chắc nhờ hồn
nhiên mơ mộng vậy mà những chiêm nghiệm về thời gian, về cái Ta của Trần Mộng
Tú là quả của sự tỉnh thức.
Sáng
nay ra phố gội đầu
Giọt
mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa
Ta là nhân chứng cho cuộc khóc thề giữa Mưa
và Tóc. Thơ là một mỉm cười. Phố là không gian cho bốn kẻ mơ mộng. Phút sống
tinh nghịch như thế là lúc biết mình đang sống, đang hưởng hết cái hiện tiền.
Lạ
chưa trong tách nước trà
Múc
lên được tiếng chim ca đầu ngày
(Lục
bát đôi dòng, tr. 42)
Tiếng chim này và mảnh trăng múc từ gàu nước
của thiền ni xưa là một chăng? Bạn cứ thử đọc đi đọc lại cặp thơ này nhiều lần,
bạn sẽ thấy như ngửi được mùi bình an thơ mộng của buổi sáng sớm, và tiếng chim
ca từ tách nước trà mở ra sự gặp gỡ giữa khoảnh khắc hiện tại và vô tận.
Cửa ngõ để đi vào mênh mông ấy, là ánh rằm,
là bóng của trăng. Lúc nhớ ra đi tìm trăng thì cái bóng rằm của nó đã qua sông
mất rồi. Người vùa vuột mất một ý thơ?
Nửa
đêm thức dậy tìm trăng
Tung
chăn, rằm đã qua sông mất rồi
(Lục
bát đôi dòng, tr. 44)
Đừng hỏi khi ra đi tôi sẽ đem theo gì,
không gì hết. Tagore nói, tôi chỉ đem theo trái tim đầy mong đợi, dĩ nhiên, đối
với tài hoa thơ Tagore, đó là trái tim thơ nhân ái. Còn ở đây, bạn nghe đi, trời
ơi, tôi không thể tưởng tượng được cái gì nên thơ hơn, hồn hậu hơn và trữ tình
hơn đến như thế: Em sẽ giấu thơ vào trong tóc:
Có
người nói khi nằm trong đất
Da
thịt tan nhưng tóc vẫn còn
Em
sẽ giấu thơ vào trong tóc
Cho
người cải táng được tay thơm
(Tay
thơm, tr. 26)
Để làm chi? Chỉ có thể nghĩ được rằng, để
khi ngũ đại tan, còn chút thơ kia cho gió tỏa hương, và tôi nghĩ, cái nhân
duyên Thơ người đem theo sẽ lại tiếp một cuộc sống khác, cũng đầy Thơ trong tay
áo.
Trần
Mộng Tú, tận lòng với tất cả, cuộc sống bên ngoài, và những hạnh phúc làm nên
chị. Và trên hết, là Thơ.
Thơ trong tay áo của chị là dấu ấn của
từng khoảnh khắc tồn tại, nắm bắt sự giản dị thường ngày, mặt khác là đòn bẩy
liên tưởng suy tư nội tâm. Thi pháp Trần Mộng Tú nghiêng về vẻ đẹp vừa giản dị,
thanh sơ của thi từ, vừa gợi lên những cảm nhận sâu sắc về con người với những
mối tương quan
Thơ
Trần Mộng Tú – một không gian thẩm mỹ – cống hiến cho tâm hồn con người cái đẹp
nguyên sơ, vốn đã bị hao mòn dần vì những điều phi nhân, phi nghĩa trong cuộc sống.
NTKM
Upland,
Tháng 9- 2025
*Tập
thơ được ra mắt trong buổi họp mặt thân hữu tổ chức tại nhà của nhà thơ Sông
Văn, vừa để đón mừng anh chị Trần Mộng Tú từ Seatle tới CA, ngày Chủ Nhật
20/7/2025. Gồm các nhà thơ, nhà văn: Anh chị Trúc Chi-Đoan Thư, Đỗ Quý Toàn, Phạm
Phú Minh, Trần Huy Bích, Búi Vĩnh Phúc, Trịnh Y Thư, Trần Chấn Trí, Đặng Thơ
Thơ, Thụy Vi, Nina Hòa Bình Lê, Paulina Đàm, Yến Tuyết, Nguyễn Hoàng Nam… và một
số văn hữu khác, rất tiếc, tôi chưa được quen…