Pages

Saturday, May 18, 2024

NỒI CANH MĂNG CHUA

Khê Kinh Kha
 

bao năm rồi, đi giữa đời
giữa đời mưa nắng giữa đời lưu vong
tháng Tư về, mùa Xuân sang
nụ hoa nào nở giữa lòng tha hương
trời trong hay mắt em trong
mây bay hay tóc em buông vai gầy
rừng tóc em, xõa quanh đời
sao em chưa xõa vào đời riêng tôi
lòng xưa vẫn mộng mơ hoài
làm sao có được tháng ngày bên em
 
bao năm rồi, em đã quên
quên tôi, quên cả duyên tình trăm năm
quên luôn những nồi canh măng
xưa em hay nấu thơm ngon nồng nàn
măng chua, ngọt, như nụ hôn
 
em hay đem ví tình nồng đôi ta
 
nay bổng nhiên, thật tình cờ
em đem nấu lại cho vừa nhớ nhung
nhớ nhung để giữa tim nồng
chỉ mong mây gío nối lòng với nhau
em ơi mình đã bạc đầu
măng chua vẫn ngọt tình sâu vẫn còn
KKK
 

 

Friday, May 17, 2024

HIỆU ỨNG CỦA ÂM VÀ THANH TRONG THƠ QUA LĂNG KÍNH CỦA NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC BÙI VĨNH PHÚC

Trần C.Trí (*)
 
Tác giả Bùỉ Vĩnh Phúc

Nhà văn Trần C. Trí và nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc
 
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc là nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà giáo và nhà ngôn ngữ học.
 Trong cõi phê bình văn thơ vừa mênh mông, dàn trải, vừa tỉ mẩn, rạch ròi của Bùi Vĩnh Phúc, kết quả của một công trình mất nhiều thập niên như cuốn 9 Khuôn Mặt. 9 Phong Khí Văn Chương, tôi chỉ có thể tập trung vào một vài chỗ nhỏ, rất nhỏ, để nói lên một số nhận xét của mình đối với lối phê bình tài hoa của tác giả về một số câu thơ của Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng.
 Đôi khi, chúng ta chợt quên đi nhà thơ Bùi Vĩnh Phúc, có lẽ là vì những tác phẩm chính của anh là về phê bình văn học, vốn làm nên tên tuổi của anh trong văn chương hải ngoại.
 Vì vậy, tôi muốn trích một bài thơ bốn câu của nhà thơ Bùi Vĩnh Phúc, để gọi là mời gọi tất cả chúng ta cùng bước vào không khí thơ ca, mà cũng là đề tài nhỏ của tôi trong bài này:
 
Cắt
 
Biển. Đêm giông bão. Nhớ chia lìa.
Ghe cắt vào sông tiếng cắt khuya
Đời cắt vào ta ngọn gió buốt
Em cắt vào ta ánh sao khuê.
 
Bài thơ thật cô đọng và thấm thía. Chỉ với 28 chữ, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh chứa đựng một âm thanh duy nhất (Ghe cắt vào sông tiếng cắt khuya) mà độc giả phải tự “nghe ra”, tuỳ theo trí tưởng tượng của mình (1). Cùng lúc là những hình ảnh cụ thể (biển, đêm, giông bão, sông, ghe, sao), pha lẫn với những hình ảnh trừu tượng (đời, em, ta), cảm xúc và cảm giác (nhớ, chia lìa, buốt). Động từ “cắt” như lưỡi dao bén ngọt, cứa vào những thực thể và cả vào tâm hồn của tác giả, để lại những chữ, những vần, những tứ thơ đẹp và buồn, đau đớn và mênh mang.
 Cái Tôi ẩn mật và Dương bản thiên nhiên ngày vây hãm trong Thơ Ở Đâu Xa của Thanh Tâm Tuyền (hay “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền”)
 Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với nhà Nhà Phê Bình Văn Học Bùi Vĩnh Phúc. Có thể sự so sánh này của tôi là khá khập khiễng, nhưng tôi nghĩ, một nhà phê bình văn chương cũng giống như một hướng dẫn viên du lịch. Khi đi ngoạn cảnh, chúng ta sẽ thấy rõ, thấy sâu, thấy nhiều cảm xúc hơn đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đang bày ra trước mắt, nếu may mắn có được một hướng dẫn viên kinh nghiệm, nhiều kiến thức, và nhất là nhiều tâm tình, đang cùng chúng ta chiêm ngưỡng một công trình tuyệt mỹ của tạo hoá.
Một áng văn hay một bài thơ, tự nó đã có một vẻ đẹp riêng, nhưng qua bàn tay “phù thuỷ” của một nhà phê bình tài hoa, vẻ đẹp đó sẽ trở lên sống động, tương tác với người đọc qua từng cung bậc cảm xúc của mình.
 Điều gì sẽ xảy ra khi một nhà phê bình thơ cũng là một nhà thơ, đồng thời là một nhà ngôn ngữ học? Đó là một sự giao thoa tuyệt diệu giữa thi ca và ngôn ngữ, mà trong đó nhà phê bình/nhà ngôn ngữ học đã soi sáng cho người đọc thấy hiệu ứng âm thanh đóng một vai trò trọng yếu trong nghệ thuật làm những vần thơ đang nằm im lặng trên trang giấy bỗng bừng sống dậy, lấp lánh trong không gian ba chiều, cộng thêm chiều thứ tư nữa là cảm xúc của người thưởng ngoạn bài thơ.
  Thi ca khác văn xuôi ở chỗ nó dành cho âm thanh, nhịp điệu một vị trí đặc biệt, nếu không muốn nói là cao hơn những yếu tố cần thiết khác cần có cho một bài thơ, cho dù đó là một bài thơ tự do. Về vị trí của âm thanh trong thi ca, nhà văn/nhà thơ/giáo sư Alberto Ríos (Khôi nguyên giải thưởng thi ca Walt Whitman, 1981) có nhận xét: “Âm thanh hiện hữu hay không hiện hữu trong một bài thơ – có nghĩa là, với tư cách một người đọc, bạn nhận thức điều này rất rõ ràng, nếu không thì nó chẳng tạo ra điều khác biệt gì đáng kể cả. Hai tình trạng này có thể được coi là cường độ âm thanh hay khoảng cách âm thanh. Cường độ âm thanh hiện hữu khi âm thanh là tất cả trong một bài thơ. Khoảng cách âm thanh, trái lại, hiện hữu khi âm thanh chỉ là một hay nhiều thành phần của bất cứ yếu tố nào làm cho bài thơ thành công.” (2)
  Khi phê bình một bài thơ, Bùi Vĩnh Phúc xem xét nhiều góc độ khác nhau như lời thơ, ý thơ, tứ thơ, vần điệu, nhưng đặc biệt nhất đối với tôi là lúc anh “chiếu” thẳng vào từng từ ngữ, tháo tung nó ra như người thợ sửa đồng hồ, săm soi từng bộ phận chi li của nó. Bùi Vĩnh Phúc “gỡ” một chữ ra, lắng nghe âm và thanh của từng thành phần nhỏ nhất cấu tạo nên chữ đó, để cảm nhận những tín hiệu mà các âm thanh đó mang đến, tạo thành cái hồn của chữ, của câu và của cả bài thơ.
  Bùi Vĩnh Phúc làm đầy đủ tất cả những công việc của một nhà phê bình: anh phân tích, so sánh, đối chiếu, trích dẫn, tổng hợp, chiêm nghiệm và cảm nhận, nhưng điều mà anh làm nổi bật lên trên mọi thứ, đó là việc phân tích. Người miền Nam thường nói hai chữ “phân tích” thành “phân tách”, và tôi muốn dùng cách phát âm miền Nam này để nói lên tài “phân âm” và “tách thanh” của nhà phê bình, nhà thơ và nhà ngôn ngữ học Bùi Vĩnh Phúc thú vị như thế nào.
  Chúng ta thường dùng hai chữ “âm thanh” khi nói về một trong những thuộc tính của ngôn ngữ như một thói quen. Thế nhưng, nếu ngẫm cho kỹ, khi so sánh tiếng Việt với tiếng Anh, chúng ta sẽ nhận ra rằng mỗi chữ trong tiếng Việt đều có đầy đủ “âm” và “thanh”, còn từ ngữ tiếng Anh chỉ có “âm” mà không có “thanh”. Tất nhiên là tiếng Anh có “trọng âm” mà tiếng Việt không có. Dẫu sao đi nữa, nếu chữ nghĩa trong tiếng Anh hàm chứa hai loại âm, trong khi lại thiếu thanh, thì làm sao có thể trầm bổng, ngân nga khi đem vào thơ ca như trong tiếng Việt được?
 
Nam Lê, một nhà thơ gốc Việt làm thơ bằng tiếng Anh, cũng nhận thấy vai trò không-thể-thiếu của thanh đối với tiếng Việt (được biểu thị bằng “dấu giọng”/tone marks trong chính tả). Trong bài thơ Dire Critical của anh, Nam Lê cho thấy thanh điệu là một phần lớn trong bản sắc của mỗi người Việt (và làm sao có thể thiếu nó trong thi ca?). Bài thơ tiếng Anh nói về tiếng Việt này đậm chất ngôn ngữ học, chơi chữ, nhiều ẩn dụ, nhuốm triết lý, ‎nếu cố dịch ra tiếng Việt e sẽ làm mất đi nhiều màu sắc, hương vị và chiều sâu của nó. Chi bằng chúng ta hãy đọc thẳng nó trong nguyên tác. Đây là phần đầu của bài thơ:
 
Dire Critical (3)
 
All in the tone.
Give us each day our diacritics – our low and high, fall
and rise, our horns and holds:
Flat we are without.
(You like that, no doubt)
 
Give us our dau sac, huyen, nga, hoi, nang…
 
 Chắc cũng cùng trong tâm tình này, Bùi Vĩnh Phúc đã say mê đi thật sâu vào thế giới âm thanh của từng chữ, từng âm tiết, thậm chí đến từng âm tố, trong một bài thơ. Muốn cảm nhận hết tài phân tích âm thanh của anh, chúng ta cần có một hiểu biết nhất định về ngữ âm và âm vị tiếng Việt. Bùi Vĩnh Phúc không nói ra điều này trong phần phê bình của anh, mà chỉ tế nhị đưa qua phần cước chú (số 4, 84). Trong phần này, anh trình bày một cách tóm tắt nhưng khá đầy đủ về cấu trúc âm, từ nhỏ đến lớn mà đa số các thứ tiếng trên thế giới cùng có là âm tố, âm tiết, âm tự và âm cú. Anh phân biệt âm đoạn là tầng có “âm điệu”, với siêu âm đoạn là tầng có “thanh điệu” (cùng với ngữ điệu và trọng âm).
  Về phần thanh điệu, cước chú cho thấy các thanh trong tiếng Việt chia thành hai thành phần: cao độ (hay âm vực) – Thanh điệu cao (ngang, ngã, sắc) và thanh điệu thấp (huyền, hỏi, nặng); đường nét (hay âm điệu) có thanh bằng (ngang, huyền) và thanh trắc (ngã, sắc, hỏi, nặng). Thanh trắc lại chia thành thanh gãy (ngã, hỏi) – trong tiếng Anh được gọi là curve tones5, hay contour – và thanh không gãy (sắc, nặng).
  Với “hành trang” âm vị học đó, chúng ta có thể bắt đầu thưởng thức tài bình thơ của Bùi Vĩnh Phúc. Khi phê bình thơ của Thanh Tâm Tuyền, ở nhiều chỗ, tác giả cho thấy rằng chính âm và thanh là những yếu tố quyết định mà nhà thơ sử dụng để tạo những hiệu ứng về hình ảnh, âm thanh và nhất là tứ thơ, lột tả tâm tình của tác giả trong bài Vang Vang Trời Vào Xuân. Về bốn câu trong bài thơ này:
 
Đứng vững không khuỵu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đoá hồng rợ
 
… Bùi Vĩnh Phúc đã thấu cảm được tâm hồn và ý chí của nhà thơ được diễn đạt, không chỉ bằng cách chọn từ ngữ, mà còn qua thanh âm của những từ ngữ đó. Cách vận dụng các thanh bằng trắc của nhà thơ đã giúp nhà phê bình “đọc” được, đồng cảm được với tính khí khái mà đúng ra chỉ ẩn sâu trong trong tâm thức của một người tù, khó lòng mà nhận diện được:
  Đoạn thơ thứ hai, bốn câu giữa, xét về vần, về điệu, là những câu đặc biệt. Vần trắc cho những câu hai, bốn và vần bằng cho những câu một, ba. Nhưng cái vần bằng này là một nỗ lực kiên cường, bất khuất của thi sĩ, cố giữ cho thân và lòng mình ở cái thế thăng bằng, không gục ngã, cũng như không biến lòng mình thành một bãi chiến trường của sự oán thù. Người thi sĩ đã cương quyết đứng vững trong cuộc đời. (66)
  Những thanh trắc trong câu thơ làm Bùi Vĩnh Phúc liên tưởng đến sự cứng rắn, còn những thanh bằng khiến anh nghĩ đến sự mềm mại, nhưng không phải là sự yếu đuối:
  Hai chữ đầu của câu đầu trong đoạn này, “đứng vững”, đều là những âm tiết trắc, với những thanh trắc cao, để chỉ sự cương quyết. Từ “không”, thanh bằng, cao, vừa như buông lơi của thân xác, cho tâm hồn được mềm lại, vừa như một xác quyết không lay chuyển. (66-67)
  Ít ai trong chúng ta đi vào sâu trong không gian âm và thanh của một chữ tưởng như là rất bình thường như chữ “không” trong câu thơ Đứng vững không khuỵu chân như Bùi Vĩnh Phúc. Khi đọc đến đó, phần lớn chúng ta chỉ thấy “không” là “không”, là một trạng từ phủ định, cùng lắm là thấy nó diễn tả thái độ bất khuất của nhà thơ, vậy thôi. Còn với Bùi Vĩnh Phúc, trạng từ phủ định này, ngoài lớp vỏ ngoài về chính tả, hình vị và cú pháp, còn có một lớp vỏ âm thanh bên dưới, chứa đựng không những là thanh bằng mà còn là thanh bằng cao, tạo nên một sự pha trộn giữa cái nhu và cái cương tồn tại song song trong một con người không chịu thua số phận.
 Tháo rời từng chữ ra để săm soi rồi, Bùi Vĩnh Phúc “ráp” chúng lại với nhau, xem chúng phối hợp nhịp nhàng với nhau thế nào để làm các câu thơ bừng sống dậy6, thấm đẫm vào tâm tư của người thưởng thức. Trong những bài thơ sau này của Thanh Tâm Tuyền trong tập Thơ Ở Đâu Xa, Bùi Vĩnh Phúc đã khám phá ra một khuynh hướng mới lạ, có phần “gai góc”, của nhà thơ khi sáng tác trong một giai đoạn mới của cuộc sống, một giai đoạn bể dâu, trong thân phận ngục tù.
Khuynh hướng mới mẻ đó phản ảnh một tâm thức mới, tâm thức phản kháng của một nhà thơ có cùng thân phận câu thúc như nhiều người quanh ông, tuôn ra những vần thơ thừa thanh trắc, ít thanh bằng, như vẽ ra một tâm hồn không còn bình yên, một tâm hồn bời bời tủi hận:
  Ông rất hay dùng những kết hợp ít thấy trong thơ, như kết hợp trắc-trắc theo dạng cao-cao, một không gãy, một gãy (đứng vững không khuỵu chân, cháy rỡ mây hồng); thấp-cao (theo dạng ít thấy, dấu hỏi đi với dấu ngã, cả hai đều gãy: đứng ngây trời ẩm sũng); kết hợp ba âm trắc sát nhau: gọi nghe biển dậy sóng, thở hít tận vô cùng, tim ta cũng cháy đỏ, thoáng lơi tay tỉnh thức ngón tê mê, nhìn nắng loé ánh trên tàn lá, mưa rối mắt đong đưa búp lá nõn (câu thơ tám âm tiết mà có tới năm thanh trắc cao, thanh cuối lại gãy). (69)
  Bùi Vĩnh Phúc cảm thụ một câu thơ bằng tâm hồn của một con người, một nhà thơ, nhưng đồng thời cũng bằng kiến thức sâu rộng về ngữ âm học và âm vị học của anh. Trong một câu thơ khác của Thanh Tâm Tuyền, âm tố cuối cùng của câu thơ, theo khiếu thưởng ngoạn của nhà phê bình, chính là yếu tố quan trọng nhất đã gợi cảm giác mạnh mẽ đối với tâm tình nhà thơ muốn gửi gấm đến người đọc. Mấy ai có thể thấy thổn thức chỉ vì một phụ âm đến sau cùng trong một câu thơ như Bùi Vĩnh Phúc? Tôi có cảm tưởng như anh đã đặt phụ âm đó dưới một cái kính lúp và hào hứng mô tả nó cho người đọc có thể cùng anh cảm nhận được những hình ảnh, âm thanh và tình cảm đến từ những đặc điểm vật lý tự nhiên của nó.
 
Câu thơ đó là Trời xanh cao vút giếng nước ngọc. Và Bùi Vĩnh Phúc đã tận tình “mổ xẻ” phụ âm cuối trong chữ cuối cùng của câu thơ, phân tích tỉ mỉ những đặc tính ngữ âm của nó và nắm bắt được hiệu ứng của chúng trong việc gây một cảm xúc hụt hẫng lẫn ngỡ ngàng cho người đọc đối với phong cảnh được miêu tả trong câu thơ này:
  … Âm tiết ngọc cuối cùng lại mang trong nó một thanh trắc thấp, cũng không gãy, nhưng âm tố cuối của nó, “c”, “cờ” [k] lại là một âm tắc, vô thanh7, âm bị tắc một cách đột ngột như hạ cái nhìn của con người một chút xuống “đáy giếng” và sững lại ở đó, bàng hoàng, trong một tâm thế và một cái nhìn quán chiếu đầy ảo hóa và thơ mộng, để thấy cái chất ngọc lung linh lóng lánh thơm và xanh biếc của bầu trời. (71)
   Cảm xúc của nhà phê bình thơ, như ta đã thấy, đến từ âm thanh trong những câu thơ. Anh đã nghiêng về phía “cường độ âm thanh”, thay vì “khoảng cách âm thanh”, như nhà thơ Ríos đã nhắc đến trong phần đầu của bài viết này.
 
 
Vấn Đề Thẩm Thức Một Tác Phẩm Nghệ Thuật
 
Trích đoạn bàn về thơ của Bùi Giáng
 
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhìn qua phần phê bình khác của Bùi Vĩnh Phúc đối với hai câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng trong một trích đoạn từ tiểu luận của anh. Ngoài một số chỗ mà Bùi Vĩnh Phúc phân tích rất tỉ mỉ về cú pháp, hình vị và ngữ nghĩa trong thơ của Trung Niên Thi Sĩ, anh vẫn không bỏ qua phần phân tích ngữ âm sở trường của mình. Điều hết sức thú vị ở đây là Bùi Vĩnh Phúc đã cho chúng ta thấy nhiều cách cấu âm của từ ngữ đã gợi ra những hình ảnh độc đáo mà người đọc có thể hình dung ra một cách vô cùng linh động. Thông thường, người đọc một bài thơ có thể mường tượng ra một hình ảnh qua cách dùng từ ngữ của nhà thơ hay những mỹ từ pháp như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, v.v. Đối với Bùi Vĩnh Phúc, hình ảnh còn đến từ âm thanh nữa. Bàn về hai câu thơ Bây giờ em ở nơi đâu/Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao, anh tỉ mỉ phân tích:
  Về phương diện phát âm học, âm “âu” trong “nơi đâu” và “sầu” là một âm chúm. Tôi muốn nói là khi phát ra âm này, đôi môi người đọc hay nói phải chúm lại. Động tác chúm môi tạo hình ảnh một cái hôn, một sự trao gửi, yêu thương. (356)
 Chưa hết, đó chỉ là về cách phát âm nhị trùng âm “âu” trong chữ “đâu” mà thôi. Bùi Vĩnh Phúc còn “giải phẫu” luôn phụ âm đứng đầu trong chữ này, miêu tả vị trí phát âm của phụ âm đó, cùng với thanh điệu của toàn chữ, và anh cho thấy các đặc tính ngữ âm này đã góp phần đáng kể trong việc diễn tả thái độ và tình cảm của người nói:
  Từ “đâu” bắt đầu bằng phụ âm “đờ” trong tiếng Việt, là một âm mà khi phát ra, đầu lưỡi phải chạm vào thành lợi ở ổ răng phía sau những răng cửa của hàm trên. Tiếng Anh gọi âm này là “apico-alveolar”. Gần giống như âm [d] của những từ “do, did” trong tiếng Anh… Từ “đâu” lại có thanh phù bình chứ không phải trầm bình. Bởi thế, câu hỏi được đặt ra một cách nhẹ nhàng, âu yếm: Em ở nơi đâu? (356)
 Bùi Vĩnh Phúc còn xét đến một khía cạnh trong phương ngữ học trong câu thơ kế tiếp của Bùi Giáng, Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao. Đối với anh, một câu thơ không chỉ đơn thuần là dòng chữ mực đen nằm trên giấy trắng một cách câm lặng. Anh nghe chừng như chàng thi sĩ đã từng “lùa bò vào đồi sim trái chín” thủ thỉ câu thơ này với người yêu cũ bằng một giọng đậm đà của xứ “khúc ruột miền Trung”, đặc biệt là cách phát âm của một phụ âm đầu có thể giúp phân biệt một người nói giọng Bắc với một người nói giọng của miền khác. Ở chỗ này, nhà phê bình bỗng trở thành một ông giáo đứng trước bảng đen, đang say sưa bình thơ, đồng thời lồng vào đó là bài học ngữ âm bậc đại học:
  Từ “sầu” bắt đầu bằng phụ âm “sờ”, đọc là [s] (voiceless alveolar fricative) theo lối Bắc, hoặc đọc là [ȿ] (voiceless postalveolar retroflex fricative) theo lối Nam hoặc Trung, đều là những âm xát xuýt (fricative), phát ra hơi gió (sibilant) một cách liên tục. Tuy nhiên, nếu đọc theo lối Nam và Trung [ȿ] (âm quặt lưỡi) thì cuống lưỡi phải chạm vào phần vòm cứng ở ngay sau ổ răng cửa hàm trên, hơi gió được cuộn, ép lại, và đẩy ra mạnh hơn. Nếu đọc theo lối Bắc [s] (âm chân răng) thì nó cũng giống như trường hợp của âm [d] trong “đâu”. Bùi Giáng sinh ở Quảng Nam, người miền Trung, cho nên chắc đọc “sầu” với âm đầu là [ȿ]. Từ “sầu”, như thế, sẽ có âm gió thở mạnh ra (dù phần nào nghe nặng và đặc hơn so với âm [s]), lại thêm thanh trầm bình (huyền) đè xuống một cách thiết tha, nặng và buồn, da diết, rất hợp với tâm trạng của thi sĩ. (356)
  Tôi nghĩ như thế này, có lẽ là từ trước tới giờ mình đọc chưa đủ nên biết chưa tới, nhưng cũng có thể là từ trước tới giờ chưa có ai phê bình thơ mà đi vào tận cùng của thế giới âm và thanh như Bùi Vĩnh Phúc. Anh dùng ngôn ngữ học để lột trần ngôn ngữ trong thi ca. Tôi vẫn cho rằng thơ văn là nơi thăng hoa tột cùng của ngôn ngữ loài người. Đặc biệt là trong thơ ca tiếng Việt, ngôn ngữ đã được thể hiện một cách rốt ráo qua phần tinh hoa nguyên thuỷ của nó: đó là phần âm điệu và thanh điệu. Đối với những người thưởng thức hay phê bình thơ có khuynh hướng nhận nhìn “cường độ âm thanh”, thì âm thanh là thế mạnh, là chất liệu chính của một bài thơ, và Bùi Vĩnh Phúc đã giúp chúng ta soi rọi chói chang vào phần nổi bật nhất đó bằng khối óc, trái tim, bằng cảm xúc, cảm hứng và bằng tài hoa của một nhà phê bình văn học mà dòng văn chương Việt hải ngoại may mắn có được trong thế kỷ 21 này.
TRẦN C. TRÍ
 
(*) Nhà văn, TS. Hiện đang giảng dạy về Romance languages và Vietnamese tại University of California, Irvine.
 
[1]Một dạng của “auditory imagery”, một trong những thi pháp đòi hỏi người đọc phải “hình dung” ra âm thanh.
2 Nguyên văn “Sound exists or does not exist in a poem – that is, as a reader you are very aware of it, or else it makes no particular difference.  These two conditions may be thought of as sonic intensity and sonic distance.  Sonic intensity is when the sound is everything in a poem.  Sonic distance, on the other hand, is when sound is simply one more part of whatever makes the poem successful.” Mooring Against the Tide: Writing Fiction and Poetry.  Ed. Jeff Knorr and Tim Schell.  Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall, 2001.  "Degas in Vegas: Some Thoughts on Sound in Poetry."  34-37.
3 Nam Lê chơi chữ trong tựa đề này, biến tính từ “diacritical” (‘thuộc về dấu giọng’) thành danh ngữ “dire critical” (‘lời phê bình tàn khốc’).
4 Le, Nam. trích trong "36 WAYS OF WRITING A VIETNAMESE POEM." The American Poetry Review, vol. 52, no. 2, Mar.-Apr. 2023, pp. 23+. Gale Literature Resource
5 Andrea Hoa Pham, The Key Phonetic Properties of Vietnamese Tones: A Reassessment – Paper at the 15th International Congress of Phonetic Sciences, Barcelona, 2003.
6 Bùi Vĩnh Phúc dùng động từ rất gợi hình là “bám” để mô tả sự kết hợp khắng khít có dụng ý của Thanh Tâm Tuyền giữa các âm tiết trong câu thơ.
7 Thuật ngữ “thanh” dùng trong phần phê bình của Bùi Vĩnh Phúc chỉ hai khái niệm khác nhau: Khái niệm thứ nhất thuộc về âm vị học/phonology, trong tiếng Anh là “tone”, ví dụ như “thanh sắc”/high-level tone (như trong cước chú của tác giả về hệ thống thanh tiếng Việt); khái niệm thứ nhì (dùng trong trích đoạn này) thuộc về ngữ âm học/phonetics, trong tiếng Anh là “voicing”. Tác giả miêu tả âm [k] là “vô thanh”/voiceless, đối lại với âm [g] (cũng cùng vị trí phát âm là âm ngạc mềm/velar consonant) là phụ âm “hữu thanh”/voiced.
TCT
 

Monday, May 13, 2024

CHIỀU CHIỀU

Nguyễn Tôn Nhan
 
Nguyễn Tôn Nhan (phải) và Nguyễn Lương Vỵ
dưới bóng Thánh Ca
 
Sáng hôm nay mặt trời xanh
Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ
Lá trong vườn từng lưỡi dao găm
Nàng giữ trên tay bông tuyết đỏ
Chim không bay đến mái hồn tôi
Nơi cô đơn rêu ngàn năm đã phủ
Nơi vinh diệu những kẻ u buồn
Nơi sáng hôm nay của tôi của nàng
Của hai kẻ đem phơi hồn ủ rũ
Chiều tôi trở về trên đồi cây
Dưới cành khô có bóng nàng treo cổ.
NTN
 

Sunday, May 12, 2024

LẠI CHUYỆN CHIẾN TRANH.

Tố Nghi
 
Israel-Palestine
 
Thinh không chiến tranh do thái-palestien tiến thẳng dô trại bịnh hổng thèm hụ còi nhấp thắng. Tui phải tất tả nhọc nhằn màn giữ hoà bình trị an, tốn sức lao động hết biết. Kết quả: đài phát thanh kiêm hãng thông tấn nội địa sanh tắc tiếng, tới độ chưa kịp khai bút đầu năm, cũng bởi thời giờ công sức đã dồn hết vô cuốn cựu ước kiếm vốn liếng hành nghề... tối cao pháp viện!
Số là... hai tên đồng sự thân tình trong sở, từng thề thốt màn "sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng tình bạn là chơn lý muôn đời". Rồi cái lý có chơn nọ, do phải bước miết đoạn đường dài sỏi đá khấp khuỷu gập gình nên sanh mỏi mệt, chơn bèn quẹo cua tìm hướng đi mới, thế là... hai đứa hai nơi ! Thỉnh thoảng đụng nhau trong ICU intense care unit (có tui đứng thị uy) chúng ngó nhau chằm chằm, hận thù dâng trào khoé mắt. Và ICU đã thành lò lửa chiến tranh cục bộ.
Tại sao ha? Thưa một kép là do thái, kép kia palestine, chung trường lớp, tốt nghiệp chung lượt và chọn chung nhiệm sở, thân thiết còn hơn ruột thịt. Nhưng đây là thuở sách đèn bận bịu, tâm hồn trong trắng chưa vẩn đục gió bụi thời gian và mầm mống chia rẽ tôn giáo chủng tộc. Rồi thì... chiến tranh đang đực cái âm ỉ tận đẩu đâu, thinh không bùng dậy. Chiến tranh từ bển kéo rốc sang, lừng lững tiến thẳng vô trại bịnh để tui vất vả màn canh chừng củi lửa, cũng bởi thằng do thái cô đơn mình ên, lạng quạng dám đi đứt !
Từ ba thập niên nay, di dân đổ qua lập nghiệp sanh sống rất đông. Đâu hổng biết chớ ngay cái-mông (lệ an) này, trong lãnh vực y tế, đám y công hầu như tuyền philippin haitian, còn aid-nurse và nurse tuyền trung đông ả rập - và đây là một trong những sắc thái ngộ nghĩnh dị biệt sắc tộc xã hội. Bởi vậy, chẳng may đụng gươm đụng giáo tại chỗ thì cái thằng bán chúa nọ, bảo đảm bình hổng trầy sứt cũng "rò rỉ". Thủ phạm nếu hổng tên palestine thì cũng đám cháu chít cùng cụ bành tổ ismael của nó.
Dĩ nhiên thằng do thái biết thân biết phận, có chi chỉ kéo Dr nô ra góc bỏ nhỏ than phiền, nhưng vừa nghe rồi là y phép phải day sang nghe tiếp bọn ả rập. Hồi đầu còn sức nên còn hăng, vừa nghe vừa cho ý kiến (... trung lập). Nhưng nghe miết sanh hồi hộp loạn nhịp tim, cạn hứng lẫn cạn sức. Khổ thân cho mệ nhọn mỏ, "hạ quyết tâm" ôm cựu ước chăm chỉ đọc, để còn răn đe cả hai bên. Rồi... teng teng teng tèng... dr nô bổng trở thành chiêng-da cựu ước, rành rẽ lịch sử loài người thời cổ đại, cả ả rập lẫn do thái.  Phải chăm chỉ đọc đăng còn hầu chuyện bọn ruồi bu nọ. Chúng nhứt định đổ lỗi cho nhau, rằng tui là nạn nhơn, bị tui hổng là người... gây hấn trước !
Chiến trận trump-biden còn dang dở chưa xong, thì cuộc chiến israel-palestine ập tới, dữ dội ồn ào gấp bội, hai kép đồng sự do thái-palestine, mỗi bữa thiếu điều mần màn sống mái. Một bữa gây cấn quá, muốn nổ tung trại bịnh, tui tống chúng ra, cho đứa con dao mổ, biểu xáp lá cà ngoài sân cỏ bịnh viện, trong này thuốc men băng ca sẵn sàng, chờ lượm xác đồng nghiệp, tử vì nước lẫn vì đạo. Ban giám đốc hay tin, chúng đuổi tuốt hai thằng, cấm đi làm trở lợi, còn tui chúng làm lơ.
Nay thì... sở cho do thái palestine nghỉ dài hạn thiếu lương đề phòng bất trắc - tuy bị cấm vô sở đi mần, nhưng vẫn có quyền ra phòng mạch tư, tiền vừa nhiều vừa khoẻ re - Kết quả là... tui phải một hơi làm 3 full time jobs, ngày đêm miệt mài. Nạn nhơn trực tiếp trong cuộc chiến do thái palestine tại đất cái-mông ni,  chừ là đôi lứa đang ủ rũ nơi đây. Làm ngày hổng đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ. Ngồi miết tới trĩ lòi cả ra ngoài ! Trĩ heng, hổng phải cọng rau muống!
TỔ NGHI
 

CON ĐƯỜNG. LA STRADA

nguyễnxuânthiệp
 
Poster phim La Strada

Con đường nào chúng ta đã đi chung
nàng thơ của tôi. tên bạo chúa. gã khùng ơi
gelsomina. zampano. the fool
ôi. tiếng kèn. đã tắt trên môi em
và biển sẽ xóa hết. dấu chân. những người một thời yêu nhau
cùng đi chung một con đường. la strada
(NXT)
     Đã có nhiều tác giả viết về Con Đường - La Strada: Nguyễn Nam Châu, Lữ KIều, Nguyện Thị Hải Hà, Sâm Thương, Trần Hoài Thư… Thơ trên là của Nguyễn tôi. Sở dĩ nhiều người yêu thích và viết về cuốn phim La Strada vì trước hết đó là một phim hay, cực hay, có dính với nụ cười và nước mắt của một thời trẻ tuổi của mỗi người. Mới đây, khi gặp lại Lữ Kiều, nhân bàn về Ca khúc Les Feuilles Mortes của Joseph Kosma và Jacques Prevert, nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ và con đường mà mình và bạn bè đã đi qua. Vậy cho nên Nguyễn tôi về chép lại bài đã viết tự năm nào để tặng bạn mình.
  
     Phim La Strada của đạo diễn lừng danh người Ý Federico Fellini đã ám ảnh tôi những năm trẻ tuổi. Hồi đó, Nguyễn này vừa mới rời trường Quốc Học bước chân vào Sài Gòn mê những hàng me đường Catinat và phố xá rực rỡ, bước chân qua các giảng đường đại học. Tuổi mới đôi mươi, lòng còn trong trắng, yêu đời như yêu những giấc mộng. Thế rồi bỗng bàng hoàng rơi lệ khi cùng người xem phim La Strada.
 
     Ôi, Federico Fellini người nghệ sĩ bi thảm của thời đại chúng ta. Người đã mở ra dòng phim mới với những tuyệt phẩm: La strada (1954), Le notti di Cabiria (1957), La Dolce Vita (1960), Amarcord (1973) -số lớn trong đó đã đoạt Oscars. Riêng bản thân Fellini đã giành giải Oscar về sự nghiệp thành tựu trọn đời vào năm 1993. Là một trong những thiên tài điện ảnh, Federico Fellini đã từng ảnh hưởng đến nhiều đạo diễn Âu Mỹ như Stanley Kubrick, Martin Scorsese, David Lynch hay Pedro Almodovar. Hôm 20/01/2020 vừa qua đánh dấu 100 năm ngày sinh của đạo diễn Fellini, từng được các điện ảnh gia người Mỹ mệnh danh là ‘bậc thầy’ Maestro.
      Mà không riêng kẻ này ngưỡng mộ Fellini và mê La Strada, còn có những cây bút khác như đã nhắc trên. Nguyễn Nam Châu, Lữ Kiều, Nguyễn Thị Hải Hà, Sâm Thương… Và giờ đây, Trần Hoài Thư đang chuẩn bị Thư Quán Bản Thảo ra số chủ đề về Fellini và tuyệt phẩm La Strada. Lữ Kiều: “Bài viết của NNC về Fellini với phim LA STRADA vẫn còn làm tôi xao xuyến mỗi lần nhớ lại. Hình như tôi đã nhiều lần nhắc đến nàng Gelsomina trong những bài văn thời trẻ của mình, nhờ NNC đó.” Trần Hoài Thư: “Vừa đánh máy mà vừa rưng rưng. Con đường của Fellini là con đường mang ý nghĩa triết lý của kiếp nhân sinh: Con đường cũng như cuộc đời, tự nó không biết khởi điểm từ đâu, mà cũng không rõ sẽ ngừng lại chỗ nào. Nó bắt đầu từ cuộc đời của những kiếp người. Người ta vào cuộc đời như người ta khởi sự lên đường. Có lần ta tạm biết mơ hồ mục-đích của cuộc hành-trình và thoáng thấy mình sẽ có ngừng lại ở điểm nào đó trên con đường, nhưng người ta không biết hết được những điều mình sẽ gặp gỡ trên nẻo đường muôn hướng đó, bởi vì Con Đường cũng có nghĩa là sự Gặp Gỡ giữa muôn vàn ngả đường. Cuộc đời cũng thế: Cuộc đời là sự gặp gỡ giữa các tâm hồn. (trích từ bài viết của NNC)
 
      Bây giờ, xin về với nội dung phim La Strada: Câu chuyện được Federico Fellini kể lại bằng một bút pháp điện ảnh đặc biệt. Nhân vật chính trong phim là Gelsomina do nữ diễn viên Ý, Giulietta Masina, thủ vai. Ôi, đôi mắt cô bé tròn xoe, luôn mở lớn, dễ thương quá. Nhất là khi cô buồn và khóc, khiến người xem se thắt lòng. Gelsomina là một cô gái chân chất, thật thà, quê mùa, nhạy cảm. Và nhân vật kia là Zampano, do nam diễn viên nổi tiếng của Mỹ Anthony Quinn đóng. Zampano, là tay nát rượu một người nóng nảy, hung bạo. Gã cao lớn vạm vỡ trong khi Giulietta Masina nhỏ bé để đứng gần Quinn cô như một cô bé mười hai mười ba tuổi.
     Mở màn, anh chàng hát xiệc giang hồ Zampano (Anthony Quinn) quay trở lại miền biển nghèo nước Ý điều đình với mẹ của Gelsomina, để có nàng thay thế Rosa, chị nàng đã qua đời. Để nuôi đàn con sót lại, mẹ nàng bằng lòng trao Gelsomina cho Zampano.
     Thế là Gelsomina theo Zampano rày đây mai đó trên chiếc xe ba bánh cà tàng. Nàng không biết làm gì khác hơn là đánh trống, nhảy múa, mỗi khi Zampano diễn trò bứt sợi xích sắt trước đám đông, nhưng nàng khờ khạo quá, đến nỗi thường bị  Zampano hành hạ đánh đập và chửi mắng. Đã có lần gặp người đàn bà đẹp, sexy hơn ở quán rượu, trong cơn say bỉ tỉ hắn liền kéo người đàn bà này đi bỏ Gelsomina ở lại bên lề đường giữa đêm khuya.  Tuy vậy hắn không thể xa nàng, nàng được dùng để sưởi ấm và thỏa mãn xác thịt những đêm đông không nhà. Nàng nhiều lần bỏ trốn, nhưng không được, nàng không biết đi đâu và không thể sống với ai khác, nên lại tiếp tục sống bên cạnh Zampano, trong gánh xiếc của hắn. 
      Thế rồi, định mệnh run rủi, hai người gặp The Fool Gã Khùng (Richard Baschart), một kẻ làm công cho một gánh xiệc giang hồ khác. Gã có tài đi trên dây cao: một trò chơi điên rồ. Gã lấy hiểm nguy đổi sự sống ư, e cũng không hẳn vậy, vì gã mắc bệnh lao, thấy mình gần với cái chết, nên muốn đùa giỡn với cái chết, mua vui cho người. Ở trên dây cao, chỉ cần một chút xúc động là gã có thể ngã xuống tan xương nát thịt. The Fool tử tế, có cảm tình với Gelsomina nên săn sóc nàng. Cử chỉ này làm Zampano bực mình. Đã thế hắn còn bị The Fool trêu chọc mãi nên ghét The Fool thậm tệ. Một lần nọ, gặp The Fool bị hư xe, Zampano ngừng lại chửi mắng. Kết quả là anh ta giết The Fool rồi vùi xác bên đường. Chứng kiến cái chết của The Fool, Gelsomina rất đau lòng, đến độ ngã bệnh tâm thần, trở nên điên loạn, mất trí. Và trong giấc ngủ mê sảng nàng gọi tên gã khùng làm Zampano sợ hãi, lo bị tù tội. Zampano muốn trả nàng về nhà nhưng nàng không chịu, vì nàng không thể sống thiếu Zampano. Phần Zampano, vì muốn yên thân đã bỏ Gelsomina lại dọc đường với một số tiền và cây kèn, hy vọng nàng có thể tự mình bươn chải. Nhưng Zampano đâu biết, xa chàng Gelsomina không sống được. Khi Zampano nhận thức được nàng là cần thiết, thực sự quan tâm đến nàng và mong muốn gặp lại nàng thì nàng đã không còn nữa.
 
      Nhiều năm sau, hắn đi ngang một làng nhỏ, nghe một cô gái huýt sáo một bài mà ngày xưa Gel thường hay lẩm nhẩm hát một mình. Ngạc nhiên Zampano đến hỏi thăm thì cô gái ấy bảo rằng ngày xưa, bố của cô bắt gặp một cô gái điên, bị ốm nặng sắp chết. Ông mang cô gái điên về cho trú ngụ, chăm sóc cho đến khi cô khỏe lại. Cô chìm vào trong cõi riêng không chú ý đến ai, lang thang trong xóm thường hay hát bài hát này vì thế cô bé con chủ nhà học thuộc bài hát. Một thời gian sau cô gái điên qua đời.
      Đêm đó, Zampano ra bờ biển, trong cơn say túy lúy ông ta gục xuống kêu lên một tiếng thét xé lòng. Rồi im lặng. Im lặng. Chỉ còn tiếng sóng biển.
 
      Ôi con đường. La Strada. Như bao cuộc đời khác, tôi cũng có một con đường với buồn vui sướng khổ, hội ngộ rồi chia ly. Và có Thơ. A, những bài thơ tôi viết cho người cho đời, và tặng những bông phù dung trong vườn chiêm bao ngày nọ. Rồi còn không, mai sau?
(Tổng hợp)
NXT

TƯỞNG NHỚ CHỊ YẾN

Phố Văn
 
Chị Nguyễn Ngọc Yến

Chị Yến, Nguyễn Ngọc Yến, vợ anh Trần Hoài Thư, ra đi ngày 27 tháng 4 vừa qua. Chị đã cùng với Trần Hoài Thư đi chung một đoạn đường dài, với hoa và trái, hạnh phúc và cả nhọc nhằn gian khó. Nay chị đã chu toàn thế nghiệp trần gian và ra đi. Để tưởng nhớ chị Yến, Phố Văn xin đặng lại một bài thơ chân tình của Đinh Cường viết khi Cường từ bệnh viện về.
 
 
8 GIỜ TỐI PHONE THĂM CHỊ YẾN Ở NEW JERSEY
 
Mừng và vui quá nghe giọng chị Yến
rất khỏe rất trong bên kia đầu giây
tám giờ tối nay, chị nói không đâu bằng mái nhà
vẫn đọc Theo Em trên blog Trần Hoài Thư
 
chị nói tôi nói ảnh đừng viết kỳ lắm, tôi nói hay
chứ chị sau này in ra tập sách kỷ niệm
khi chị đã đi lại được - chắc chắn như vậy -
chị và tôi chúng ta đều ở hiền gặp lành
 
khi ở bệnh viện về được nhà tôi cũng mừng lắm
không đâu bằng cái góc quen thuộc của mình
dù được sự chăm sóc chu đáo rất dễ thương
của mấy cô nurse ngày đêm thay phiên
 
nghe lại giọng nói thanh trong của chị
như nghe lại một thuở Cần Thơ
nghe lại cả tiếng phà qua sông Cửu Long
bao nhiêu chùm lục bình tím trôi
phone thăm chị Yến thấy lòng vui
chị sẽ lại về Virginia cho thêm bánh tráng
 
Virginia, March 6, 2013
ĐC
 

Friday, May 10, 2024

MỸ HỌC CỦA HƯ VỠ

Nguyên Giác
 
Đức Phật ngồi trong hư vỡ, vô thường. Hình: Pexels.com.
 
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
 
Thân người chính là một bình gốm mong manh, dễ hư vỡ, và rồi sẽ một ngày tất nhiên phải hư vỡ. Đức Phật nói trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 40, qua bản dịch của Thầy Minh Châu là:
 
40. “Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí;
Giữ chiến thắng không tham.”
 
Bài kệ trên nói rằng, thường trực biết thân mình, biết cơ thể mình mong manh như đồ gốm, là tâm sẽ khởi lên cái thấy của trí huệ, là tất nhiên lìa tham. Hiểu biết như thế, khi thấy đồ gốm quý tan vỡ, cũng sẽ tất nhiên không sân hận. Câu chuyện sau là dịch từ Thiền sử Nhật Bản.
 
Đồ gốm hư vỡ, đó là quy luật có sinh, có diệt.
 
Thiền sư Ikkyu, khi còn là thiếu niên đã lộ ra trí thông minh, nhanh nhẹn, và là một chú tiểu biết ứng biến. Thầy của Ikkyu có một tách trà quý giá, đó cũng là một cổ vật quý hiếm. Chú tiểu Ikkyu vô ý làm vỡ chiếc tách trà này và rất mực bối rối. Nghe tiếng bước chân của thầy, Ikkyu ôm những mảnh tách vỡ ra sau lưng. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: “Tại sao người ta phải chết?”
 
Vị thiền sư già giải thích, ““Đó là tự nhiên, vì mọi thứ có sinh thì phải có tử. Đó là luật vô thường, mọi thứ đều phải hư vỡ.”
 
Bấy giờ, chú tiểu Ikkyu lấy chiếc tách vỡ ra và nói với thầy: “Bạch thầy, đã đến lúc cái tách của thầy phải chết rồi.” Dĩ nhiên, vị thầy không giận.
 
Tất cả chúng ta trong đời đều phần nào chấp nhận mỹ học của sự hư vỡ. Nhiều người trong chúng ta, tại Việt Nam và cả tại Hoa Kỳ, đã từng đi lang thang trong các tiệm bán đồ cũ, vào các chợ trời, nhìn những thứ hư vỡ, và đôi khi mua những thứ còn có thể sử dụng được. Đôi khi, có những thứ không còn sử dụng được, nhưng mua về chỉ vì nó là đồ cũ, nó có giá trị của hư vỡ, cho dù hoàn toàn không có giá trị hiệu năng so với đời sống của thế kỷ 21 nữa, thí dụ, chiếc đèn dầu hột vịt, đồng hồ quả lắc…
 
Đức Phật đã lấy nhận thức về hư vỡ và thái độ sống hoan hỷ với hư vỡ thành một lộ trình giải thoát. Riêng chúng ta đã sống với hư vỡ theo một cách đơn giản đời thường, nhiều khi chỉ vì không có lựa chọn để được sống sang trọng, xa hoa. Trong khi đó, dân tộc Nhật Bản đã nâng tầm sống với hư vỡ, với sứt mẻ, với gãy đổ… thành một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật Kintsugi, còn gọi là kintsukuroi, chữ này tiếng Anh dịch là “golden repair” – nghĩa là, sửa chữa bằng vàng.
 
Theo Wikipedia, Kintsugi là nghệ thuật sửa chữa đồ gốm bị nứt, bị vỡ của Nhật Bản bằng cách vá những chỗ bị vỡ bằng sơn mài urushi phủ bụi, hoặc trộn với bột vàng, bột bạc hoặc bột bạch kim. Về mặt triết lý, nghệ thuật này coi sự hư vỡ và việc sửa chữa như một phần lịch sử của một đồ vật, chứ không phải là thứ gì đó để ngụy trang, để che giấu. Phần lớn tập trung vào đồ gốm, vì dân Nhật Bản xem uống trà như một nghệ thuật.
 
Khi uống trà, tất nhiên là phải dùng tới những cái tách làm bằng đồ gốm. Thử hình dung, nếu uống trà bằng ly thủy tinh trong suốt, hay bình nhựa học trò… thì chẳng còn gì là nghệ thuật, và cũng không ai bận tâm sửa chữa những hư vỡ bằng bột vàng. Do vậy, uống trà phải là dùng tách làm bằng đồ gốm, hoặc với các vương triều, là tách làm bằng gốm tráng sơn mài. Kỹ thuật sơn mài, Nhật Bản gọi là maki-e, cũng là một nghệ thuật lâu đời tại Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn… 

Dùng vàng để vá đồ gốm hư vỡ là truyền thống Nhật Bản.
 
Nhưng các thiền sư Nhật Bản chỉ uống trà trên các tách làm bằng đồ gốm trông có vẻ như thô, nhám. Và khi nâng tách trà lên, bên cạnh hương trà, là hai bàn tay cảm nhận chất thô, nhám của đồ gốm, của đất sét nung, của đất nước gió lửa… Trà đạo đối với Thiền Tông Nhật Bản không chỉ là lá trà, bột trà, chất trà, vị trà, mà là toàn bộ thân tâm hành giả trong từng cử chỉ nâng tách trà lên, nếm chút trà, tay xúc chạm vào đồ gốm, cảm nhận thế giới và thân tâm tan trong từng cử chỉ và cảm thọ.
 
Theo truyền thuyết Nhật Bản ghi lại, vào thế kỷ 15, Tướng quân Ashikaga Yoshimasa từng làm vỡ một bát trà Trung Quốc. Bát trà này là của hiếm, do từ nghệ nhân thủ công Trung Quốc gửi tặng, nghĩa là không có bát trà nghệ thuật thứ nhì giống như thế. Sau đó, Tướng quân gửi bát trà về Trung Quốc để sửa chữa, nhưng nó lại bị gửi lại bằng cách vá gốm, nhìn không vừa ý Tướng quân này. Yoshimasa sau đó đã yêu cầu các nghệ nhân của mình tìm cách vá gốm cho đẹp hơn, từ đó phát minh ra nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng của Nhật Bản.
 
Lịch sử ghi rằng, hồi thế kỷ 15, Nhật Bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển… Dưới ảnh hưởng của Tướng quân Ashikaga Yoshimasa và những người kế vị ông, Nhật Bản đã phát minh ra một lối sống mới: văn hóa Higashiyama. Bắt nguồn từ dòng tư tưởng Thiền Tông, bầu không khí văn hóa này đã thúc đẩy sự phát triển của trà đạo, nghệ thuật cắm hoa (ikebana), kịch Nô và tranh thủy mặc vẽ bằng mực Tàu.
 
Trong nền văn hóa đầy Thiền vị này, nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng đã phát triển nhanh chóng… Đến mức một số nhà sưu tập bị thu hút bởi vẻ đẹp và triết lý của Kintsugi, đã cố tình đập vỡ một số đồ gốm cổ của nghệ thuật Nhật Bản để sửa chữa bằng vàng. Nghĩa là, làm thành một hóa thân mới, một kiếp sau của sản phẩm nghệ thuật. Thực tế, không phải ai cũng có điều kiện để sống huy hoàng như thế. Nhiều Thiền sư không cần vá gì, chỉ đơn giản sử dụng các chén, tách, tô… đã bị sứt mẻ. Và trong sứt mẻ đó, trong hư vỡ đó cũng là một thế giới mới được hình thành: sống hoan hỷ với hư vỡ. Đó cũng là ý nghĩa của Phật giáo.
 
Phong thái sống của các Thiền sư Nhật Bản là sống với hồn nhiên, đơn giản, khổ hạnh, tinh tế, lìa thói quen, tĩnh lặng, từ bi… Trong khi đó, giới nghệ nhân, từ nghệ thuật Kintsugi lấy vàng nấu chảy để vá gốm đã hòa lẫn với phong thái Thiền để hình thành một cách nhìn gọi là Wabi-sabi. Chữ này thịnh hành từ thế kỷ thứ 16, một chữ không còn mang ý nghĩa “lấy vàng vá gốm” nữa, mà là một nhận thức nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những sinh vật nhất thời trên hành tinh này – rằng cơ thể chúng ta cũng như thế giới vật chất xung quanh chúng ta đang trong quá trình trở về cát bụi. Chu kỳ sinh trưởng, mục nát và xói mòn của tự nhiên được thể hiện ở các cạnh bị sờn, rỉ sét, đốm gan. Thông qua wabi-sabi, chúng ta học cách đón nhận cả niềm vui và nỗi buồn được tìm thấy trong những dấu vết của thời gian trôi qua.
 
Theo truyền thuyết Nhật Bản, một chàng trai trẻ tên là Sen no Rikyu đã tìm cách học hỏi những phong tục phức tạp được gọi là Trà Đạo. Anh ta đến gặp trà sư Takeeno Joo, người đã thử thách chàng trai trẻ bằng cách yêu cầu anh ta chăm sóc khu vườn. Rikyu dọn dẹp những rác vụn và cào đất cho đến khi nó thật hoàn hảo, sau đó xem xét kỹ lưỡng khu vườn sạch sẽ. Trước khi trình bày tác phẩm của mình với vị trà chủ, anh đã rung chuyển một cây anh đào khiến một vài bông hoa rơi ngẫu nhiên xuống đất. Chính cái bất toàn đó, những nụ hoa rơi trên nền cát trắng cho thấy cái đẹp của vô thường, của hư vỡ. Sách ghi rằng, cho đến ngày nay, người Nhật tôn kính Rikyu như một người hiểu rõ cốt lõi của sợi dây văn hóa sâu sắc được gọi là wabi-sabi.
 
Theo tự điển, Wabi là những thứ tươi mới, đơn giản và mang vẻ đẹp mộc mạc. Và Sabi là những rung động, cảm xúc trước vẻ đẹp của lớp gỉ đã cũ theo thời gian.
 
Chỉ có những người thấm đượm văn hóa Wabi-sabi mới hiểu được vẻ đẹp dịu dàng, nguyên sơ của những ngày tháng 12 xám xịt bao trùm lên một tòa nhà hoặc nhà kho bị bỏ hoang. Nó tôn vinh những vết nứt, kẽ hở, chỗ mục nát và tất cả những dấu vết khác mà thời gian, thời tiết và quá trình sử dụng để lại. Khám phá wabi-sabi là nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt ở một thứ mà thoạt nhìn có thể trông như là bất toàn và hư vỡ.
 
Theo dòng thời gian, tới thế kỷ 17, xuất hiện một Thiền sư được xem là sống trọn vẹn theo phong cách wabi-sabi.
 
Đó là Thiền sư Baisaō (1675-1763). Ông thuộc dòng thiền Ōbaku (Hoàng Bá). Thiền sử ghi rằng Hoàng Bá học từ Bách Trượng Hoài Hải. Hoàng Bá để lại một tác phẩm nổi tiếng là Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu. Trong môn đồ của Hoàng Bá, nổi tiếng nhất là Lâm Tế. Baisaō nổi tiếng như một Thiền sư học giả, một nhà thơ, một nhà thư pháp… nhưng đã từ chối tất cả các lời mời trụ trì khi các tướng quân dâng cúng chùa, rồi cuối đời lang thang, ra đời làm một ông già lang thang Kyoto để bán trả. Một đời sống cực kỳ hồn nhiên, khổ hạnh, tĩnh lặng, từ bi… Tâm không vướng một niệm, nhưng toàn bộ thân tâm sống với cõi vô thường, lặng lẽ nghe hư vỡ từng ngày.
 
Để có thể hiểu về cách sống của Baisaō, chúng ta có thể dẫn ra tông yếu Thiền qua lời Hoàng Bá, trích theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:
 
“… Người học Đạo hễ có một niệm vọng tâm là xa Đạo, ấy là điều tối kị. Hết thảy mọi niệm đều vô tướng, đều vô vi, tức là Phật. Người học Đạo nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều không cần phải học, chỉ cần học cái không mong cầu, không chấp trước là đủ. Không mong cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không diệt.” (ngưng trích)
 
Thiền sử ghi rằng Baisaō là một Thiền sư nổi tiếng khi đi du lịch khắp Kyoto để bán trà. Quán trà của ông có ảnh hưởng rất lớn ở Kyoto, đặc biệt là với các nghệ sĩ và triết gia. Baisaō có nghĩa là, ông cụ bán trà. Nhưng tên trong nhà thiền ông là Gekkai Genshō (月海元昭, Nguyệt Hải Nguyên Chiêu). Sau này, ông về đời, sử dụng tên cư sĩ là Kō Yūgai (高遊外, Cao Du Ngoại).
 
Baisaō là một nhà thơ và là một tu sĩ Phật giáo, nhưng đã bỏ lại đằng sau những ràng buộc của cuộc sống chùa chiền và ở tuổi 49 du hành đến Kyoto, nơi ông bắt đầu kiếm sống bằng cách bán trà trên đường phố và tại các địa điểm có danh lam thắng cảnh xung quanh thành phố. Tuy nhiên, Baisaō còn pha chế nhiều thứ hơn là trà – khách hàng của ông, bao gồm các nghệ sĩ, nhà thơ và nhà tư tưởng có ảnh hưởng vào thời đó: họ xem việc tới gánh trà của ông có tầm quan trọng về mặt tôn giáo. Những chiếc giỏ đan bằng tre lớn chứa đầy dụng cụ pha trà của ông đã mang đến cho Baisaō và các khách hàng của ông cơ hội trò chuyện và làm thơ cũng như những loại trà đặc biệt.
 
Thiền sư Baisaō. Hình trái do Ito Jakuchu vẽ. Hình phải do Tanomura Chikuden vẽ.
 
Baisaō sinh năm 1675 tại đảo Kyushu phía nam Nhật Bản. Là con trai của một trong những tầng lớp trí thức ưu tú trong vùng, anh nhận được một nền giáo dục sâu rộng và khi lên 11 tuổi, trở thành tu sĩ trong thiền phái Ōbaku, lấy tên là Gekkai Genshō. Năm 1687, ông cùng sư phụ Kerin Dōryū du hành đến Mampuku-ji, trụ sở của Ōbaku Zen. Một trong những nơi hai thiền sư đến thăm là Kōzan-ji, ở ngoại ô Kyoto, nơi trồng những vườn trà đầu tiên ở Nhật Bản.
 
Giống như nhiều thiền tăng khác, Baisaō trải qua nhiều nhiệm vụ khác nhau tại ngôi chùa riêng của mình, Ryūshin-ji. Sự nghiệp tôn giáo Baisaō có thể chia thành ba thời kỳ: thời kỳ rèn luyện trong trường thiền hơn hai thập niên, thời kỳ thứ hai, ông quản trị tăng chúng trong chùa và sau đó trên thực tế giữ chức quyền trụ trì tại Ryushin-ji ở Hasuike; và giai đoạn thứ ba, lang thang bụi đời ở Kyoto với tư cách là Ông già bán trà. Khi sư phụ qua đời, chức vụ trụ trì được chuyển giao cho một nhà sư trẻ hơn. Khi Baisaō được hỏi tại sao không nhận được chức trụ trì này, ông khiêm tốn trả lời “vì tôi không có trí tuệ hay đức hạnh.” Mặc dù nhiều lần được đề nghị tiếp quản ngôi chùa nhưng ông đều từ chối và ông lên đường về kinh đô Kyoto, nơi ông sẽ sống phần đời còn lại của mình.
 
Kyoto lúc đó là nơi tự do, phóng khoáng nhất Nhật Bản, nơi cho phép sự sáng tạo và nghệ thuật phát triển. Các nhà văn, nghệ sĩ và học giả rủ nhau đến thành phố, phá vỡ chủ nghĩa bảo thủ còn bao vây nhiều nơi ở Nhật Bản. Được bao quanh ba mặt bởi những ngọn đồi phủ đầy cây xanh rất đẹp và với dân số khoảng nửa triệu người, Kyoto là một trong những thành phố đẹp nhất trên trái đất (lúc đó, và cả bây giờ, khi trở thành cố đô Nhật Bản).
 
Vào thời điểm xã hội Nhật Bản chuyển đổi, Baisaō nổi bật nhờ kỹ năng của mình với tư cách là một nhà thơ và nhà thư pháp với kiến thức sâu rộng về văn học Trung Quốc, những kỹ năng được đánh giá cao ở Kyoto. Baisaō được tất cả những người tiếp xúc với ông đánh giá cao vì tâm hồn rộng rãi, từ bi, dịu dàng và cuộc sống dường như vô tư của ông, như dường từ chối hệ thống cấp bậc Phật giáo đã được thiết lập. Theo thời gian, ông trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong một thành phố đầy những nghệ sĩ và lập dị. Có rất nhiều nhân vật độc đáo ở Kyoto vào thời điểm này đến nỗi vào năm 1788, một cuốn sách đã được xuất bản, “Eccentric Figures of Recent Times” (Những dị nhân của thời đại gần đây), trong đó Baisaō đóng một vai trò nổi bật.
 
Ở tuổi sáu mươi, Baisaō mở một cửa hàng nhỏ hoặc có lẽ chỉ là một quầy hàng (ông gọi nó là “ngôi nhà ốc sên”) trên một cây cầu đông đúc bắc qua sông Kamo của Kyoto. Vào thời điểm đó, những người bán trà lưu động thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội và bán loại trà bột kém chất lượng. Tuy nhiên, Baisaō đã giới thiệu sencha, một loại trà lá rời được đun trong nồi và được coi là loại trà cao cấp hơn nhiều; một loại trà mà chỉ cần “một ngụm, bạn sẽ vĩnh viễn thức dậy khỏi giấc ngủ trần tục.” Ngày nay chúng ta gọi loại trà này là trà xanh Nhật Bản. Trên thực tế, Baisaō không thực sự bán trà của mình mà chỉ nhận tiền quyên góp, nguyên tắc là miễn phí, nói rằng “Giá của loại trà này là từ một trăm đồng vàng đến nửa xu. Nếu bạn muốn uống miễn phí cũng không sao. Tôi chỉ tiếc là tôi không thể để bạn có nó với giá rẻ hơn.” Sau đó, Baisaō từ bỏ ‘cửa hàng’ nhỏ của mình và đi lang thang ở Kyoto và những ngọn đồi xung quanh, mang theo dụng cụ pha trà trên một chiếc sào tre và lập nghiệp ở bất cứ nơi nào có phong cảnh thu hút ông.
 
Những năm cuối đời của Baisaō đầy khó khăn khi tuổi già và bệnh tật ập đến. Mùa đông lạnh giá ở Kyoto tỏ ra đặc biệt khó khăn đối với một ông già ít tiền. Đói và lạnh là bạn đồng hành. Mặc dù ông được công nhận là một thiền sư nổi tiếng, nhưng chỉ trong những năm cuối đời ông mới nhận một số ít đệ tử. Trong suốt cuộc đời dài của mình, ông vẫn tiếp tục làm thơ và sáng tạo ra những tác phẩm thư pháp được đánh giá cao. Ngay trước khi ông qua đời ở tuổi tám mươi tám, bạn bè ông đã tặng ông một tuyển tập các tác phẩm in của ông, Baisaō Gego (“Những câu thơ và văn xuôi của người bán trà già”), khẳng định tầm quan trọng của ông trong đời sống văn hóa của Kyoto thế kỷ 17-18.
 
Ông đã sống lang thang trên những hư vỡ của đời. Gánh trà, vừa bán, vừa tặng. Viết thư pháp để tặng người hữu duyên. Làm thơ khi vào giữa cuộc đời xôn xao để hoằng pháp. Trong cái hư vỡ của vô thường, không thấy gì để mong cầu, không thấy gì để chấp trước. Thiền sư đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh gốm hư vỡ của thân tâm chúng sinh.
 
Nơi đây. xin trích từ mấy dòng thơ của Baisaō:
Đừng nghĩ tôi là một ông già
với tình yêu say đắm dành cho trà.
Mục đích của tôi là đánh thức bạn
ra khỏi giấc ngủ trần gian của bạn.
 
Và cũng từ mấy dòng thơ khác, cũng của ông già bán trà, người đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh đời hư vỡ ở Kyoto:
 
tuyệt đối không còn gì
chỉ còn lại duy nhất
một vầng trăng sáng và lạnh
nơi cửa sổ, lúc nửa đêm
chiếu sáng rực tâm Thiền
trên đường trăng về nhà.
 
Thiền sư Baisaō qua một đời sống dị thường đã trở thành một hóa thân của nghệ thuật Kintsugi, tự biến cuộc đời Thiền sư của mình trở thành chất vàng để nối kết những mảnh đời người hư vỡ vào với đường trăng giải thoát.
 
NGUYÊN GIÁC
California, cuối tháng 4/2024.