Hình I_ Đinh Cường
[Nghệ Thuật Tạo Hình VN Hiện Đại, Huỳnh Hữu Uỷ, VAALA 2008]
[Nghệ Thuật Tạo Hình VN Hiện Đại, Huỳnh Hữu Uỷ, VAALA 2008]
TIỂU
SỬ ĐINH CƯỜNG
Tên
thật là Đinh Văn Cường, sinh ngày 5 tháng 7 năm 1939 tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương, xứ sở của đồ gốm và sơn mài, với trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một do người
Pháp thành lập từ 1901 [Thủ Dầu Một cũng là nơi hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí đã bị người
Pháp giam an trí tại đây sau khi ra khỏi trại tù Sơn La]
1951-1957
học sinh Trung học Pétrus Ký Sài Gòn.
1963
tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
1964
tốt nghiệp Sư Phạm Hội Hoạ Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn
1962
Huy Chương Bạc với bức Thần Thoại, Triển Lãm Hội Hoạ Mùa Xuân Sài Gòn
1962
Giải Thưởng với bức Nhà Thờ, Đệ Nhất Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế Sài Gòn
của Toà Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc
1963
Huy Chương Bạc lần thứ hai với bức Chứng Tích, Triển Lãm Hội Hoạ Mùa
Xuân Sài Gòn
1969-1971
Uỷ viên Kiểm soát Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam
1963-1967
Giáo Sư Hội Hoạ trường Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế
1967-1975
Giáo Sư trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
Đinh
Cường đã sống ở Huế, Đà Lạt, Sài Gòn với một thời tuổi trẻ đi và sống lang
thang khắp miền đất nước cho đến khi sang định cư ở Mỹ từ 1989, hiện sống ở thị
trấn Burke, bang Virginia.
Đinh
Cường đã có hơn 20 cuộc triển lãm tại Việt Nam [qua nhiều thành phố Đà Lạt, Huế,
Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Pleiku] và ngoài nước như Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Brésil, Tunisie, Ấn Độ, Singapore.
Theo
một brochure Triển Lãm Đinh Cường, tính cho đến 2005 Đinh Cường đã có 24 lần
triển lãm tranh riêng và 21 lần cùng với các hoạ sĩ khác.
Sách
đã xuất bản:
Cào
lá ngoài sân đêm, thơ,
Thư Ấn Quán Hoa Kỳ 2014
Tôi
về đứng ngẩn ngơ, thơ,
Quán Văn Sài Gòn 2014
Đi
Vào Cõi Tạo Hình I, tiểu
luận hội hoạ, Văn Mới California 2015
Hình II_ Bìa Cào lá
ngoài sân đêm (trái),
Tôi về đứng ngẩn ngơ (phải)
Tôi về đứng ngẩn ngơ (phải)
Hình IIIa_ Đinh Cường
Võ Phiến (trái) Đinh Cường Doãn Quốc Sỹ (phải)
[tư liệu Võ Phiến và Đinh Cường]
[tư liệu Võ Phiến và Đinh Cường]
Khánh Trường, Nguyễn Xuân Hoàng
ĐI
VÀO CÕI TẠO HÌNH
Là
bộ sách 2 cuốn, Tập I viết từ thời người Pháp thiết lập trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
Đông Dương những năm 1930 cho tới giai đoạn chuyển tiếp 1954; cũng là thời điểm
của hiệp định Genève chia đôi đất nước. Tập II viết về những hoạ sĩ cùng thời từ
1957 đến 1966, năm thành lập Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam.
Đi
Vào Cõi Tạo Hình I, viết về 16 hoạ sĩ tên tuổi theo thứ tự trong sách: Lê Phổ,
Lê Văn Đệ, Mai Thứ, Nguyễn Gia Trí, Tôn Thất Đào, Nguyễn Đỗ Cung, Điềm Phùng Thị,
Trương Thị Thịnh, Tạ Tỵ, Văn Đen, Lê Văn Phương, Võ Đình, Bùi Xuân Phái, Thái
Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng. Không mang tính cách một tài liệu biên khảo mà là một
thể loại như tuỳ bút, Đinh Cường đã vẽ nên chân dung rất linh hoạt của từng hoạ
sĩ mà anh có cơ hội gặp gỡ tiếp xúc, cùng với nguồn tư liệu phong phú và cũng rất
riêng tư mà có lẽ chỉ Đinh Cường còn lưu giữ được. Cả đến mỗi bức tranh in
trong tập sách cũng là chọn lựa rất đắt giá của Đinh Cường, phản ánh đầy đủ cá
tính và tài năng của từng hoạ sĩ mà anh viết tới.
và thủ bút Đinh Cường
Cũng
rất riêng tư, cuốn sách Đi Vào Cõi Tạo Hình I, như một flashback về mấy
tên tuổi như Tôn Thất Đào, Mai Thứ, Tạ Tỵ. Tôi nhớ lại, đã từng được học vẽ với
hoạ sĩ Tôn Thất Đào mấy năm trung học ở Huế.
Họa
sĩ Mai Thứ
Riêng
với tên tuổi hoạ sĩ Mai Trung Thứ đã gợi cho tôi những hồi tưởng xa hơn. Trước
thập niên 1940s khi chưa có tôi, cụ thân sinh tôi nguyên là giáo Pháp văn trường
Khải Định cùng thời với hoạ sĩ Mai Trung Thứ, là giáo sư hội hoạ. Hai vị quen
nhau trong thời gian này. Năm 1952, sau khi gia đình tôi từ Thanh Hoá hồi cư về
Hà Nội, hoạ sĩ Mai Thứ lúc ấy đang sống ở Pháp và hai vị liên lạc lại được với
nhau. Lúc đó tôi 11 tuổi, chỉ biết mặt hoạ sĩ Mai Trung Thứ qua mấy bức hình
ông gửi, cùng với một bức tranh màu vuông nhỏ vẽ về thế giới trẻ thơ – rất
Mai Thứ, do ông gửi tặng, nay không còn giữ được, ngoài hai tấm hình chụp
hoạ sĩ Mai Thứ trong Studio ở Paris nay còn tìm thấy được trong album gia đình.
[Hình VI]
Hình Va_ Hoạ sĩ Mai Thứ
trong Studio, Paris 1952
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Đúng
như cảm nhận của Đinh Cường: "xem lại thế giới trẻ thơ trong tranh Mai Thứ
là một niềm vui, một hạnh phúc". Không phải chỉ có niềm vui và hạnh
phúc của người xem tranh, hoạ sĩ Mai Thứ còn cống hiến và tặng dữ niềm vui và hạnh
phúc ấy tới những đứa trẻ bất hạnh trên khắp Năm Châu qua những bức tranh trẻ
thơ được in trên các tấm postcards của UNICEF/ United Nations International
Children’s Emergency Fund giúp gây Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng của Liên Hiệp Quốc.
[Hình VII]
Hình Vb_ Thư Pháp/ La
Calligraphie (trái), Mẹ Dạy Thêu Thùa (phải),
tranh Mai Thứ trên bưu thiếp UNICEF, giúp gây Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc
[nguồn: Mai Lan Phương, con gái Hs Mai Thứ]
tranh Mai Thứ trên bưu thiếp UNICEF, giúp gây Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc
[nguồn: Mai Lan Phương, con gái Hs Mai Thứ]
Hoạ
sĩ Tạ Tỵ
Từ
trước 1975, đã được xem tranh, đọc thơ văn và cả sách nhận định văn học của Tạ
Tỵ [Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn 1970, Mười Khuôn
Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Lá Bối Sài Gòn 1972] nhớ lại là với mỗi tác giả đều
được Tạ Tỵ phác thảo một chân dung với đường nét hết sức độc đáo. Tạ Tỵ tốt
nghiệp từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, nhưng anh đã không tự ép mình
trong khuôn khổ được đào tạo từ trường ốc, anh luôn luôn đi tìm cái mới và được
coi như hoạ sĩ tiên phong trong lãnh vực hội hoạ Lập thể/ Cubism rất sớm ở Việt
Nam từ những năm 1950s và hội hoạ Trừu tượng/ Abstract những năm về sau này.
Hình VIa_ Thủ bút của
Tạ Tỵ 02-01-1995
Tôi
chỉ thực sự được quen anh là trên đất Mỹ từ những năm 1990, khi cả hai cùng một
lứa bên trời lận đận. Tạ Tỵ cùng thế hệ với Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân
Hồng, anh hơn tôi một thế hệ. Anh đã có dịp đọc "Giấc Mộng Con năm
2000" và nồng nhiệt chia xẻ với tôi về dự án một Công viên Văn hoá ở hải
ngoại mà anh gọi là Giấc Mộng Lớn. Trong một thư riêng viết từ Garden Grove Feb
1, 1995, anh viết: "Tôi chia sẻ rất nhiều với anh về những điều anh viết,
dù rằng tuổi tôi đã cao, cái sự ‘nhìn thấy những điều mình mơ ước’ chắc cũng
khó mà thực hiện, nhưng đó cũng chẳng sao, vì tất cả đều cho mai sau và cái
‘mai sau’ đó so với sự luân chuyển của thời gian cũng như lịch sử nó chẳng đáng
gì. Ngọn lửa đã nhúm lên rồi, chỉ cần có thêm nhiều nguyên liệu tạo nên sự bùng
cháy trường kỳ trong lòng mỗi người tỵ nạn có tâm huyết, bất luận trí thức hay
bình dân. Mong lắm thay! Hy vọng, hy vọng và hy vọng! Mong anh đừng bao giờ để
có người nói: "Các ông là những người đến muộn".
Và
trong chỗ rất riêng tư, anh ngỏ ý sẵn sàng hiến tặng một số tác phẩm lớn để đời
của anh, khi hình thành được một Công viên Văn hoá như vậy. Nhưng rồi, khá bất
ngờ vào tháng Jul 27, 2000 từ San Diego cũng trong một thư riêng khác anh cho
biết quyết định sẽ về sống ở Việt Nam "dù không biết trước cái gì sẽ xảy
ra cho đời mình, nhưng dầu sao tôi cũng muốn được an nghỉ ở Việt Nam nơi mình
đã sinh ra, đã sống 60 năm trời. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ
ngày đi vào cõi Hư Không. Nhớ các anh lắm". Tạ Tỵ
Hình VIb_ tranh Tạ Tỵ:
Nhớ Hà Nội, 1947 (trái);
Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 2000 (phải)
Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 2000 (phải)
Rồi
anh đã âm thầm trở về Sài Gòn, sống những ngày cuối đời với người con gái út.
Anh mất ngày 24 tháng 8 năm 2004, thọ 83 tuổi. Anh được toại nguyện an nghỉ nơi
quê nhà, thân xác anh được hoả thiêu trở về với cát bụi, nhưng tên tuổi Tạ Tỵ
và các tác phẩm của anh thì vẫn trường tồn trong dòng chảy văn hoá dân tộc.
HỘI
HOẠ SĨ TRẺ VIỆT NAM
Ở
giai đoạn thập niên 1960, thế hệ các hoạ sĩ như Đinh Cường, Nguyễn Trung,
Nghiêu Đề, Cù Nguyễn, Lâm Triết, Trịnh Cung, Nguyên Khai… họ không những trẻ về
tuổi tác, mà có thêm một mẫu số chung là không ngừng đi tìm những đường nét mới
làm trẻ trung cho nền hội hoạ Việt Nam. Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam chính thức được
hình thành 1966, với nhận định:
"Chúng
tôi, một số hoạ sĩ trẻ không ngại những khó khăn tinh thần lẫn vật chất cùng
thành lập một hội lấy tên là Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam, làm như vậy chúng tôi hy
vọng tạo được những cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và từ đó sẽ hình thành
ra những đưởng lối sáng tạo độc đáo trong bầu không khí sinh hoạt hội hoạ trong
sạch và cởi mở".
Không
phải chờ tới năm 1966 khi Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam được thành lập, trong
suốt 20 năm thời kỳ 1954 tới 1975, cùng với các bộ môn khác của văn học nghệ
thuật, như một kết tinh may mắn của lịch sử: của thiên thời địa lợi nhân hoà, nền
hội hoạ và điêu khắc của Miền Nam đã phát triển trong nhiệt tình và đổi mới tới
cao độ. Họ ở lứa tuổi 20 – 30, cho dù là hội viên của Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt
Nam hay không, một số tốt nghiệp trường Mỹ Thuật như Đinh Cường, Lâm Triết,
Nguyễn Trung, Trịnh Cung, Nguyễn Phước, Nguyên Khai, hay bỏ học ngang như
Nghiêu Đề, hoặc không xuất thân từ trường Mỹ Thuật như Cù Nguyễn nhưng họ đều
là những viên ngọc ẩn thạch, những khuôn mặt tài năng có cơ hội là phát triển với
sức sáng tạo thăng hoa tới mức cao nhất để hình thành những tác phẩm hội hoạ có
giá trị nghệ thuật trong không khí tự do của Miền Nam.
Qua
người bạn tấm cám Nghiêu Đề, tôi có cơ hội làm quen và giao tiếp với các bạn của
anh trong giới hội hoạ của thời kỳ ấy, trong số đó có những Lâm Triết, Cù Nguyễn,
Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Trịnh Cung, Đinh Cường, rồi Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ ở
những năm về sau này.
XEM
TRANH ĐINH CƯỜNG
Hình VII_ Qua đồi cát
La Vang, Đinh Cường sơn dầu
sưu tập của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (trái)
Vườn Đá Tảng, Đinh Cường sơn dầu 1994 (phải)
sưu tập của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (trái)
Vườn Đá Tảng, Đinh Cường sơn dầu 1994 (phải)
Bày
tỏ về nghệ thuật hội hoạ, Đinh Cường cho biết: "Tôi đã vẽ trong mọi
hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để làm gì. Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi
thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm".
Đinh
Cường đã thành danh trước khi tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật 1963. Trước đó một
năm, với bức Thần Thoại Đinh Cường đã sớm tạo được thành tích với một
Huy Chương Bạc trong cuộc Triển Lãm Mùa Xuân năm 1962.
Hình VIII_ Trang tranh
Đinh Cường
trên báo Thế Giới Tự Do, Tập XIV Số 8, 1967 Sài Gòn
trên báo Thế Giới Tự Do, Tập XIV Số 8, 1967 Sài Gòn
Khởi
đi từ giai đoạn nghệ thuật tạo hình/ figurative paintings, Đinh Cường đã nổi tiếng
ngay với những bức tranh của một thời kỳ lãng mạn với đường nét thanh thoát về
một Đà Lạt với phố núi mù sương vừa thơ mộng và cả quạnh hiu với đỉnh nóc tháp
chuông nhà thờ với lẻ loi một bóng chim đậu.
Người
xem tranh Đinh Cường khi ấy không thể không liên tưởng tới hình ảnh nóc nhà thờ
trong cuốn phim trắng đen Les Dimanches de Ville d’ Avray nổi tiếng của
Pháp chiếu ở Sài Gòn thời bấy giờ (1962). Đó là câu chuyện của viên phi công
trong khi tấn công một đoàn xe địch, anh tin rằng mình đã giết lầm một bé gái;
phi cơ anh bị bắn hạ, tuy sống sót nhưng anh hoàn toàn mất trí nhớ. Sau này khi
anh gặp một cô bé Cybèle 10 tuổi bị bỏ rơi trong viện mồ côi sống với các bà
sơ, anh đinh ninh đó là cô bé gái đã bị chết trong vụ oanh kích và từ đó đã nẩy
sinh một mối liên hệ tình cảm thánh thiện giữa anh phi công và cô bé. Nhưng vẻ
đẹp thuần khiết của mối liên hệ ấy đã bị nghi ngờ, trở thành scandal trong thị
trấn Avray và kết thúc là một thảm kịch. Đinh Cường kể lại là sau này có dịp
sang Pháp, anh đã tìm tới thăm thị trấn Avray, tới tìm lại hình ảnh ngôi nhà thờ
với đỉnh tháp chuông có gắn con gà bằng đồng trong cuốn phim đã xem từ năm nào.
Với
hơn nửa thế kỷ vẽ tranh và không ngừng sáng tạo, đã có nhiều bài nhận định phê
bình về hội hoạ Đinh Cường. Hầu như tất cả đều nói tới "chất thơ" chất
lãng mạn của tranh Đinh Cường.
Trịnh
Công Sơn viết: "Trong hội hoạ, Đinh Cường là thi sĩ của hoài niệm"
[Tuổi Trẻ, tháng 9, 1986].
Đặng
Tiến trong một bài viết tiếng Pháp giới thiệu cuộc triển lãm tranh Đinh Cường tại
Galerie Annam Héritage 2010, nhan đề "Đinh Cường, La Source Résurgente/ Tấm
lòng Vô hạn", Đặng Tiến viết: "Tranh Đinh Cường, trong tinh
thể, phải chăng là ký ức của một đoá hoa hồng đã hiến dâng hương sắc cho trần
gian. Và nghệ thuật trần gian phải chăng là hoài niệm một mùi hương"
[Orleans, tháng 10-2010]
Huỳnh
Hữu Uỷ Nhận định: "Đinh Cường đã dựng nên một vũ trụ đầy chất thơ, kết
hợp rung cảm với bút pháp độc đáo của một tư duy riêng biệt. Ở đây, âm hưởng của
màu sắc, bố cục của đường nét là phương tiện phô diễn tính cách độc đáo của một
tư tưởng nhiều chiều sâu, phản ánh nhiều hình bóng của đời sống và thời đại."
Hình IX_ Đinh Cường Huỳnh
Hữu Uỷ
Bùi
Giáng nói tới chất thơ trong tranh Đinh Cường, trong một bài thơ tiếng Pháp tặng
Đinh Cường 1972:
Le Poème de la Peinture
Il
s’en va come le Poisson d’eau douce
Sa
Peinture rêveuse s’en va comme le Demeurer du Demeurant
Qui
déploie son ordre et se refuse
Sur
le mode de la Double Réserve
Je
n’ai rien à lui dire sinon peut-être
Que
le Poème de la Peinture
S’
entend à merveille avec la Peinture du Poème
Comme
la Reine des Almées
S’
appelle aussi bien l’ Almées des Reines
Que
le Retour de la convalescente qui chante sa joie
A
réjoui immensément l’ Enfant des Riveraines
Au
bord de l’ Abîme des Abîmes
Vou
n’ avez rien à lui dire sinon peut-être
Que
l’ Éclaircie de l’ Être lui est favorable
Comme
l’ Éraflure du Temps lui est favorisante
Lorsque
la Terre advient à l’ émergence
Tandis
qu’ un Monde s’ ouvre
Bùi Giáng 1972
Hình X_ trái: thủ bút
Bùi Giáng, "Bài thơ Hội hoạ" tặng Đinh Cường 1972;
phải: Đinh Cường Bùi Giáng, Sài Gòn 1987
phải: Đinh Cường Bùi Giáng, Sài Gòn 1987
Bản phỏng dịch Ngô Văn
Tao
(Ngô Văn Quế, Gs Toán ĐH Montréal, bạn nhà thơ Bùi Giáng)
[nguồn: DNSG – Xuân Kỷ Sửu 2009]
(Ngô Văn Quế, Gs Toán ĐH Montréal, bạn nhà thơ Bùi Giáng)
[nguồn: DNSG – Xuân Kỷ Sửu 2009]
Trong
chỗ riêng tư, Đinh Cường cho biết: anh thì vẫn tâm đắc nhất với bài viết của Đỗ
Long Vân, nhà nghiên cứu mỹ học, người bạn chung sống với Đinh Cường hai năm ở
Đà Lạt trong cùng một studio nhỏ trên đường Hoa Hồng. Bài viết tiếng Pháp của Đỗ
Long Vân, được một Bửu Ý tài hoa dịch sang tiếng Việt. Trích đoạn:
"Nul
éclat. Aucune dissonnance. Une pâte sombre et dense, légère malgré cela, et qui
chante comme de l’or. C’est un or nocturne dont toute la lumière est tournée
vers l’intérieur. Cela ennuie tout d’abord, et puis l’on finit par aimer cette
pudeur obstinée, qui, pour sembler sans audace, n’en est pas moins durement
conquise. Il suffit d’ailleurs de regarder Cuong au travail et l’on voit que le
charme simple et lisse qui séduit lentement en ses toiles, jamais Cuong ne l’a
atteint du premier coup, mais qu’il est l’aboutissement de longs essais où se
conjuguent le hasard et l’on ne sait quelle fatalité. Ses toiles débutent
toujours dans l’éclat. Cela commence comme une explosion de fleurs et, presque
toujours, cela devient un océan et nuit bleue et noire, non la vieille nuit
sanglante qui obsède la mémoire de son souvenir, mais la jeunesse du monde dont
tous les trésors enfouis s’éveillent pour illuminer de leur éclat fragile cette
première nuit qui s’appellerait aussi bien l’aurore. Car voilà que du fond de
la terre des lueurs nous viennent, que l’espace s’entr’ouvre dans un envol d’acier,
que des cristaux scintillent tandis qu’au-dessus de l’abime, des villes en
dérive tentent d’aller ensemble…"
"Không
rực rỡ, không lạc điệu, một chất màu ủ và quánh mà vẫn nhẹ nhàng và reo ca như
vàng kim. Một thứ dạ kim với bao nhiêu hào quang quay trở vào bên trong. Điều
này thoạt tiên bắt chán, cuối cùng ta lại đem lòng yêu mến cái e ấp trì quyết ấy,
nó có vẻ như không táo gan, nhưng không phải vì thế mà không khổ công chinh phục.
Phương chi chỉ cần nhìn Cường làm việc và ta thấy cái đẹp đơn sơ và bóng láng
quyến rũ chầm chậm ở tranh anh, không bao giờ Cường đạt được ngay từ lúc đầu,
mà nó là kết thúc của nhiều dò dẫm dài hơn, nơi kết liên của ngẫu nhiên và một
tiền định nào đó không hiểu. Tranh của anh luôn luôn khởi đi từ trong ánh rực rỡ.
Bắt đầu như một vỡ oà của hoa, và hầu như luôn luôn trở thành đại dương đêm
xanh đen, không phải cái đêm cổ tích đẫm máu ám ảnh ký ức bằng kỷ niệm, nhưng
là tuổi trẻ của trần gian với hết thảy kho tàng vùi chôn choàng dậy hầu soi tỏ
bằng ánh sáng mong manh cái đêm đầu tiên ấy, cũng có thể gọi luôn là buổi lê
minh. Vì chưng đã đến với ta kia, từ cùng thẳm địa cầu, từng đợt sóng, không
gian hé mở trong một vỗ cánh ánh thép, những mảnh thuỷ tinh nhấp nháy, trong
khi bên kia vực thẳm, bao thành phố rắp tâm phiêu dạt theo nhau…"
Hình XI_ Đỗ Long Vân
và Đinh Cường, Đà Lạt 1963
Sau
Đà Lạt, Đinh Cường có một thời gian sống lâu dài ở Huế, anh đã sáng tác những bức
tranh với màu sắc u trầm – chữ của Huỳnh Hữu Uỷ, về Thành Nội về một cố
đô Huế khuê các nhưng tàn tạ khuất lấp sau những lớp rêu phong.
Hình XII_ Studio Đinh
Cường, đường Rose Đà Lạt 1963 (trái)
Đà Lạt Nostalgia, tranh Đinh Cường sơn dầu (phải)
Đà Lạt Nostalgia, tranh Đinh Cường sơn dầu (phải)
Đinh
Cường thành công rất sớm nhưng anh vẫn đi tìm cái mới, có một giai đoạn khoảng
sáu năm (1969-1975), anh chuyển qua nghệ thuật hội hoạ trừu tượng/ abstract
paintings.
Trả
lời phỏng vấn báo Thế Giới Tự Do [Tập XIV, số 8, 1967 Sài Gòn], Đinh Cường thổ
lộ: "Tôi đã dần dần tước bỏ hết ý niệm về sự vật, hay nói theo danh từ
triết học kinh điển, loại bỏ mô thể/ forme của sự vật để chỉ còn giữ lại chất
liệu/ matière thuần tuý của sơn dầu." Nhưng rồi cuối cùng anh vẫn trở
về với hội hoạ tạo hình, với những bức tranh rất Đinh Cường, có thể nói
không cần có chữ ký, người thưởng ngoạn vẫn có thể nhận ra bức tranh đó là của
Đinh Cường. Số lượng tranh Đinh Cường đã vẽ có thể lên tới con số ngàn. Định cư
ở Mỹ từ 1989 tới năm 2000, chỉ trong vòng 10 năm, Đinh Cường đã thực hiện được
5 cuộc triển lãm, chưa kể những cuộc triển lãm tranh trong nước.
Hình XIII_ Studio Đinh
Cường, đường Hoà Bình Huế 1966 (trái)
Huế Nostalgia, tranh Đinh Cường sơn dầu (phải)
Huế Nostalgia, tranh Đinh Cường sơn dầu (phải)
Theo
Đỗ Hồng Ngọc – nhà thơ Đỗ Nghê, Thân Trọng Minh – nhà văn nhà thơ Lữ Kiều, là 2
bạn đồng môn cho biết mặc dù phát hiện bệnh từ 2011, Đinh Cường vẫn về Việt Nam
triển lãm tranh với Thân Trọng Minh năm đó. Năm 2013, tuy đã yếu nhưng Đinh Cường
vẫn về Việt Nam gặp gỡ bạn hữu và triển lãm tranh lần thứ hai. Chuẩn bị năm
2015 sẽ về thực hiện một cuộc triển lãm tranh quan trọng khác tại Đà Nẵng trong
Viện Bảo Tàng Điêu Khắc Chàm/ Musée de la Sculpture Cham, nhưng lần này
phải hoãn lại vì Đinh Cường bước vào giai đoạn chemo.
Ngoài
khối tranh nghệ thuật, đa số là sơn dầu, là sự nghiệp hội hoạ rất dày của Đinh
Cường, phải kể tới những ký hoạ chân dung của đông đảo các văn nghệ sĩ, và cả
những chân dung tự hoạ, đây cũng là một nét tài hoa khác của Đinh Cường.
Hình XIVa_ từ trái: ký
hoạ Bùi Giáng, Tuệ Sĩ, Nguyễn Đức Sơn
Hình XIVb_ từ trái: ký
hoạ Doãn Quốc Sĩ, Võ Phiến
Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn
Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn
Đinh
Cường đã từng cảm phục sức làm việc của Khánh Trường, nhất là trong suốt thời kỳ
đang bệnh hoạn: hai lần tai biến mạch máu não, ung thư thanh quan, xuất huyết
bao tử, truỵ thận phải liên tục lọc máu hàng đêm/ Peritoneal Dialysis. Vậy mà
Khánh Trường vẫn viết tác phẩm Tịch Dương, vẫn nhận trình bày các bìa
sách, vẽ rất nhiều tranh thiền và mở ba cuộc triển lãm. Đinh Cường viết về
Khánh Trường: "một con người tưởng đã chết đi và sống lại, sống lại lẫm
liệt để Qua Bờ. Bờ của an trú tịch nhiên" [Khánh Trường, Sức Mạnh của
Im Lặng, Virginia Jan 8, 2012]
Nhưng
rồi chính bản thân Đinh Cường sau này cũng qua những trải nghiệm thăng trầm về
sức khoẻ, không thiếu gian truân, nhưng sức làm việc của Đinh Cường cũng vẫn cứ
bền bỉ không ngừng sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.
Hình XV_ Họp mặt sinh
nhật Thái Tuấn 11/9/1983
sau từ trái: Trần Lê Nguyễn, Đinh Cường, Thanh Tâm Tuyền
trước từ trái: Thái Tuấn, Quang Dũng, Doãn Quốc Sỹ
[Quang Dũng tác giả bài thơ Tây Tiến, là bạn học thiếu thời của Thái Tuấn]
sau từ trái: Trần Lê Nguyễn, Đinh Cường, Thanh Tâm Tuyền
trước từ trái: Thái Tuấn, Quang Dũng, Doãn Quốc Sỹ
[Quang Dũng tác giả bài thơ Tây Tiến, là bạn học thiếu thời của Thái Tuấn]
ĐỌC
THƠ ĐINH CƯỜNG
cào lá ngoài sân đêm
tặng
Bửu Ý
chiều
mù cây nhánh trơ
tôi
mù sương mất hút
giữa
muôn trùng lạnh tăm
cuối
năm rào lá đổ
suốt
ngày nghe tiếng quạ
kêu
ngoài hiên xanh rêu
đôi
khi vờ ngủ muộn
giấc
mộng đầy quạnh hiu
chiều
ra sông bến lạ
bên
kia phố lên đèn
mới
biết mùa đông gọi
một
mặt trời không tên
như
người xưa nhớ bạn
cánh
nhạn nhờ đưa tin
tôi
một mình đứng lặng
cào
lá ngoài sân đêm
Virginia,
Nov 1997
XEM
TRANH MỚI ĐINH CƯỜNG
Hình XVIa_ Bố Cục Xám
I, sơn dầu trên canvas 30 x 40 in
Đinh Cường 2014
Đinh Cường 2014
Hình XVIb_ Bố Cục Xám
II, sơn dầu trên canvas 30 x 30 in
Đinh Cường 2014
Đinh Cường 2014
NHỮNG
BÀI THƠ THỨ SÁU
Sinh
lão bệnh tử là bốn khổ não của xác thân, mà không một chúng sinh nào thoát ra
khỏi. Bản thân người viết đã trải qua 46 năm hành nghề y khoa, cũng đã từng là
con bệnh nặng sau những năm ra tù và chỉ khi ấy mới thực sự thấm thía ý nghĩa
kinh điển của một câu nói "không có bệnh chỉ có người bệnh".
Trong một cuốn sách nhan đề "When Doctors are Patients" của
Pinner M. và Miller B.F. [W.W. Norton and Co., New York 1952] ghi lại một cách
trung thực những kinh nghiệm bản thân phải nếm trải của chính các bác sĩ khi phải
đối đầu với một số bệnh nặng hay cả nan y, qua nội dung cuốn sách Pinner M.
cũng là một bác sĩ đã đi tới kết luận: "Người bệnh không chỉ đương đầu với
căn bệnh, mà phải đối phó với một suy sụp toàn thể".
Ý
nghĩ miên man ấy sau khi nói chuyện điện thoại với Đinh Cường, vẫn giọng nói ấm
và trầm tĩnh của Bạn thuở nào. Với những tin tức về sức khoẻ của Đinh Cường từ
khi bước qua ngưỡng tuổi "cổ lai hy" với một lần chấn thương sọ não
và nay Đinh Cường đã "xuống tóc" do chemo khiến bạn hữu rất quan tâm.
Cách đây ba năm, sau một tai nạn xe cộ tuy nhẹ, nhưng Đinh Cường đã bị một cục
máu tụ trong sọ não. Theo đồng nghiệp Nguyễn Tường Giang, một cố tri thân thiết
ở rất gần với Đinh Cường, thì sau phẫu thuật thần kinh/ trepanation, Đinh Cường
hoàn toàn trở lại bình thường ngoài vết sẹo lõm của lỗ khoan trên hộp sọ.
Nhưng
sớm hơn cách đây bốn năm 2011, Đinh Cường đã được chẩn đoán về một căn bệnh
khác: ung thư tuyến tiền liệt/ prostate cancer. Ung thư tuyến tiền liệt cũng
khá thông thường như ung thư vú ở phụ nữ. Với tiến bộ của y khoa, cả hai dạng
ung thư trong nhiều trường hợp có thể chữa khỏi nếu chẩn đoán sớm và điều trị
đúng mức. Không hiếm những người bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt từ hơn 30 năm
vẫn khoẻ mạnh ở tuổi đã ngoài 90, đến lứa tuổi ấy nếu chết thường là do những
nguyên nhân khác.
Không
rõ chi tiết bệnh của Đinh Cường có được chẩn đoán sớm hay không, nhưng ở tuổi
đã ngoài 70, bác sĩ của Đinh Cường đã không chọn giải pháp phẫu thuật mà bằng
hormonotherapy. Bệnh ổn định trong một thời gian, sau đó Đinh Cường được chuyển
qua chemotherapy/ hoá trị; dĩ nhiên với nhiều tác dụng phụ/ side effects và anh
đã can đảm vượt qua.
Nằm
trên chiếc ghế chemo, đã quá quen thuộc, nhìn những giọt thuốc nhỏ giọt, nhưng
đó là chuyện của thân xác; Đinh Cường thì vẫn cứ làm thơ hay vẽ một bức tranh
nhỏ và để rồi ngày hôm sau, gần như ngày nào anh cũng được các bạn tới đón đi
ăn sáng hoặc brunch. Khi thì Nguyễn Mạnh Hùng Nguyễn Tường Giang, khi Phùng
Nguyễn và Như Hạnh, khi thì Nguyễn Thế Toàn biệt danh Toàn Bò, khi Nguyễn Minh
Nữu, khi Phạm Cao Hoàng và rồi cả các bạn từ xa tới thăm. Đinh Cường rất quảng
giao, ngày nào cũng ra khỏi nhà, anh luôn luôn được vây quanh bởi một tình bạn ấm
cúng.
Từ
xa, phone thăm bạn, 9 giờ sáng California là giờ buổi trưa ở Miền Đông, vui với
giọng nói Đinh Cường vẫn trầm ấm và mạnh như thuở nào, rồi sau đó được Đinh Cường
chuyển điện thoại cho nói chuyện khi thì với Phùng Nguyễn Tháp Ký Ức bên
Da Màu nơi quán Starbucks, khi thì với Nguyễn Tường Giang Khói Hồ Bay từ
Café Montmartre hay Le Chat Noir, nhắc tới cố tri Nguyễn Tường Vũ, tới Thế Uyên
Thái Độ Xám rồi Duy Lam Gia Đình Tôi với sức khoẻ hồi này sa sút
ra sao; rồi với Nguyễn Mạnh Hùng Đại học George Mason vừa sau chuyến đi Bắc
Kinh và Nam Ninh trở về, với ấn tượng về những "think tank" rất
trẻ trung của Trung Quốc ở lứa tuổi trên dưới 40 chứ không già nua như ở Việt
Nam – một Việt Nam thì vẫn cắm cúi đi theo mô hình Trung Quốc nhưng bao giờ
cũng tụt hậu ít nhất 20 năm, khiến không thể không nhắc tới câu nói của Lê Khả
Phiêu, tổng bí thư Đảng CSVN đã làm cho người Việt phải chau mày: "Nếu
Trung Quốc thành công trong đổi mới, chúng ta sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất
bại chúng ta sẽ thất bại". [FEER, 06/22/2000].
Tuy
ở xa hàng ngàn dặm, với cell phone, internet eMail thì mối liên hệ bằng hữu vẫn
cứ gần gũi như trong một ngôi làng nhỏ.
Hình XVII_ Đinh Cường
autoportrait
tại quán cà phê Starbucks Apr.17.2015
tại quán cà phê Starbucks Apr.17.2015
Gởi Ngô Thế Vinh,
Chiếc
ghế chemo trong căn phòng ấy
những
sợi giây nylon đang thả xuống
hai
bịch nước trong veo như nước mắt
tôi
ngước mắt nhìn lên. từng giọt. đều.
rơi
xuống. giọt. làm nhớ Văn Cao:
từ
trời xanh
rơi
vài giọt tháp Chàm
Quy
Nhơn. ngày anh đến đó. những tháng đầu năm 1985
ba
bài thơ Quy Nhơn I, Quy Nhơn II, Quy Nhơn III
anh
đã ghi lại như ba tấu khúc cello. đẹp như huyền thoại
biển
đưa về vài chùm chim yến
nắng
làm khô những lá dừa non
…
quanh Quy Nhơn
tôi
như đứa nhỏ yêu huyền thoại [1]
giọt.
giọt. giọt. tôi lại ngước mắt nhìn lên
xem
gần cạn chưa. cho đến giọt cuối cùng.
hai
giờ lim dim hai giờ hít thở… chemo. chemo …
thì
cứ xem như một điệu nhảy vui của người Phi Châu
thì
cứ xem như những lời khuyên của Đỗ Hồng Ngọc
mình
phải sống. và sống khác. Phải tự tại thôi
Ai
có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?
Virginia,
July 10, 2015
Đinh Cường
[1] Văn Cao – Lá –
thơ – Nhà xb Tác Phẩm Mới 1988
MỘT
ĐINH CƯỜNG ĐỐN NGỘ
Nhớ
lại cuộc phỏng vấn Đinh Cường do Nguyễn Nam Anh [một bút hiệu khác của Nguyễn
Xuân Hoàng] thực hiện cách đây cũng gần 1/4 thế kỷ, Đinh Cường đã phát biểu: "Đời
sống bên này có cái thực tế khắc nghiệt là vậy. Càng khắc nghiệt tôi càng trầm
tĩnh. Nghiệm ra một điều: hãy làm hết sức mình cho một công việc tốt, cũng có
lúc bù đắp lại. Những tấm tranh cũng đã từng nuôi sống tôi, tôi không thể bỏ vẽ
được". Tạp chí Thế Kỷ 21, số 23 tháng 3, 1991]
Hình XVIII_ Đinh Cường,
Ngô Thế Vinh trong garage studio
Burke, Virginia [photo by Như Phong, 1993]
Burke, Virginia [photo by Như Phong, 1993]
Càng
khắc nghiệt tôi càng trầm tĩnh. Hai mươi bốn năm sau lần nói chuyện với Nguyễn
Xuân Hoàng, Đinh Cường vẫn sống khắc kỷ như vậy ngay cả trong tình huống rất cực
đoan và vô cùng khắc nghiệt về sức khoẻ. Nguyễn Xuân Hoàng thì cũng đã mất gần
một năm [12/09/2014]. Đinh Cường thì vẫn hít thở, sống trọn vẹn từng giây phút
từng ngày, vẫn vẽ tranh làm thơ, vẫn hoàn tất trong cùng năm 2015 hai tác phẩm
tiểu luận về hội hoạ "Đi vào Cõi Tạo Hình I & II", Đinh Cường
tự nhủ: phải sống và sống khác, phải tự tại thôi. Một Đinh Cường đã thực
sự đốn ngộ, cho dù đang chênh vênh bước trên con dốc tử sinh.
Thứ
Sáu 28/ 08/ 2015, một ngày chemo của Đinh Cường, sau đó được Nguyễn Thế Toàn tới
đón từ nhà thương, nói chuyện qua phone vẫn một Đinh Cường giọng ấm và trầm
tĩnh, hai người bạn ấy cứ như từ một pinic và đang trên đường về. Sáng Thứ Bảy
ngày hôm sau, Đinh Cường đã đưa Nguyễn Đình Thuần đi Washington DC xem tranh tại
National Gallery of Art, đến tối là một buổi họp bạn tới khuya. Đinh Cường đều
có mặt, đó là tin vui cho các bạn hữu ở xa muốn biết tình trạng sức khoẻ của
Đinh Cường.
NGÔ THẾ VINH
Long Beach, Sep. 6,
2015
No comments:
Post a Comment