Saturday, June 22, 2013

TRUYỆN NGẮN CAM LI NGUYỄN THỊ MỸ THANH


Điều Mẹ Không Quên

 

                                             Quang Trung đánh Ngọc Hồi, diệt giặc Thanh
                                                                        Tranh Vi Vi

Tôi đến thăm Mẹ sau một chuyến đi xa. Mới có mấy tuần mà trông Mẹ có vẻ khác khác thế nào! Tôi giấu hai tay sau lưng, hỏi Mẹ:
-          Mẹ đoán thử xem… con đem cái gì tới cho Mẹ đây!
Mẹ tỏ vẻ háo hức, nói:
-          Cái gì? Cái gì… có ăn được không?
-          Dạ dĩ nhiên là ăn được.
Mẹ cười hớn hở. Thật sự thì lần nào đến với Mẹ, tôi cũng chỉ mua “cái gì ăn được”. Bởi về sau này Mẹ chỉ thích thức ăn. Tôi cứ hay tự nói với mình là đến một độ tuổi nào đó người ta sẽ không còn ham muốn gì nữa, chỉ nghĩ đến cái ăn.
Mẹ lộ vẻ thích thú khi ăn món bánh cam. Tôi thì sợ cái loại bánh chiên béo quá béo này, nên chỉ ngồi nhìn Mẹ ăn. Tóc của Mẹ bạc nhiều rồi, gần hết cả mái đầu, lại cắt ngắn cho dễ tắm gội. Chị Vân, người săn sóc Mẹ giúp chúng tôi, cũng ngồi gần đó, nhìn Mẹ ăn. Người phụ nữ này đến theo chương trình chăm sóc người già tại nhà, tính tình hiền lành và chu đáo, nên rất được chúng tôi tin cậy. Mẹ cũng thích chị ấy. Mẹ nói chị ấy là con nuôi của Mẹ hồi chị ấy còn bé. Chúng tôi chỉ cười chứ không cãi. Mẹ ở với gia đình chị Hai tôi. Còn tôi, ở riêng, vài ba bữa lại ghé thăm Mẹ.
Mẹ thưởng thức cái bánh cam một cách tận tình. Tôi nhắc Mẹ:
-          Còn một cái, Mẹ muốn để dành chiều ăn không?
Mẹ lắc đầu:
-          Mẹ không ăn, Mẹ để dành cho…
-          Cho chị Hai hở Mẹ? Hay cho các cháu? Các cháu cũng đã có phần các cháu, Mẹ đừng lo.
-          Không phải.
Chị Vân nói vui:
-          Vậy là bác cho con?
Mẹ lắc đầu lia lịa, quay nhìn vào bên trong:
-          Không cho cô ăn đâu! Tôi để dành… cho bà bạn của tôi.
Tôi ngạc nhiên:
-          Bà bạn nào?
-          Bà bạn thân của Mẹ, bà ở đây mấy ngày nay rồi.
-          Ở đâu hở Mẹ? Sao con không biết?
Mẹ hất đầu:
-          Ở trong đó!
Tôi nhìn chị Vân, không hiểu. Chị Vân “à” lên, rồi cũng nhìn vào trong giống như Mẹ. Chị nói:
-          Con biết rồi!
-          Ừ, dẫn tôi vào thăm bà bạn của tôi đi!
-          Dạ.
Chị Vân đưa mắt hàm ý bảo tôi đi theo. Tôi vói lấy cái walker, cho Mẹ vịn hai tay vào, rồi chúng tôi dẫn Mẹ vào phòng. Mẹ dừng lại trước tấm gương lớn, nói giọng vui mừng:
-          Chào bà! Con gái của tôi này, nó mới đi về đấy!
Tôi giật mình. Mẹ nói chuyện với người trong gương. Mẹ không có vẻ gì là nói đùa cả. Thiếu điều tay bắt mặt mừng!
Tôi nhìn qua chị Vân. Chị khẽ gật đầu. Tôi biết đây không phải chuyện đùa. Chị nói với tôi:
-          Từ hôm qua tới giờ, bác cứ như vậy đó! Mỗi khi mình dẫn bác vào phòng, bác đều chào “bà bạn” ấy.
-          Chị Hai em có biết không?
-          Mình có kể, chị Hai cũng hơi lo, chị bảo sẽ đưa bác đi bác sĩ.
Tôi cùng tiến đến trước chiếc gương lớn. Mẹ vui vẻ bảo:
-          Con chào bác đi, bà bạn thân của Mẹ đấy!
Tôi buồn cười, nhưng cũng gật đầu chào:
-          Dạ, cháu chào bác ạ!
Người trong gương cũng gật đầu với tôi. Mẹ kể về “bà bạn” cho tôi nghe:
-          Bà bạn này cùng dạy học một trường với Mẹ.
-          Bác ấy dạy môn gì hở Mẹ?
Mẹ ngẫm nghĩ, rồi nói:
-          Ờ… để Mẹ nhớ xem. Hình như là… môn… Nhạc. Ồ, phải rồi, môn Nhạc.
Tôi và chị Vân nháy nhau cùng “chơi” với trò chơi của Mẹ. Chị Vân hỏi:
-          Vậy bác cũng đi dạy hở bác? Vậy mà con không biết.
Mẹ nhíu mày, gật gù:
-          Ừ, bác đi dạy chứ! Ở Việt Nam, xa lắm đó, cháu có biết không?
-          Dạ cháu biết. Cháu cũng là người Việt Nam mà bác!
-          Ừ. Ở Việt Nam… Việt Nam… xa lắm…
Câu chuyện gián đoạn vì chị Hai tôi đã về.

**

Theo lời bác sĩ Stevens thì Mẹ mắc chứng bệnh suy giảm trí nhớ ở người cao tuổi. Mẹ có những sự nhầm lẫn cũng là bình thường thôi. Bác sĩ bảo hiện giờ thì Mẹ có chút xáo trộn trong nhận thức, chưa có gì nguy hiểm. Nhưng ông cũng cho biết:
-          Đến một ngày nào, bà sẽ không nhận ra con cháu của mình nữa, mọi người hãy chuẩn bị mà đón nhận điều đó và làm mọi cách để thích nghi.
Và… điều đó đã đến. Mỗi ngày Mẹ một nhầm lẫn. Mẹ lộn tên các con và các cháu. Mẹ không nhớ chuyện mới xảy ra. Và Mẹ càng khắng khít hơn với “bà bạn trong gương”.

Hôm nay Mẹ cũng vào phòng tắm và chuyện trò với bà bạn. Tôi không còn ngạc nhiên nữa, nhưng vẫn theo sát bên Mẹ. Tôi cũng dặn chị Vân đừng rời Mẹ nửa bước khi không có chúng tôi. Có khi Mẹ không biết đến sự có mặt của chúng tôi bên cạnh. Và một lần, Mẹ sửa lại mái tóc, vuốt vạt áo cho thẳng, như một cô giáo sắp bước lên bục giảng. Chị Vân và tôi lặng yên theo dõi. Mẹ nói với “bà bạn trong gương”:
-          Bà nhớ nhé, xong giờ Sử của tôi là đến giờ Nhạc của bà đấy!
Và Mẹ đằng hắng, nói:
-          Các em mở sách ra, trang 18. Bài học hôm nay là về Nguyễn Thái Học và cuộc khởi nghĩa Yên Bái…”
Tôi nín thở. Chị Vân như cũng bất động. Mẹ đâu có để ý đến chúng tôi bên cạnh.
Mẹ nói tiếp, giọng như giảng bài:
-          “Chết vì Tổ quốc, cái chết vinh quang; lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Các em ghi nhớ câu này nhé! Đó là câu mà ông Nguyễn Thái Học đã nói trước ngày bị lên máy chém cùng với mười hai đồng chí của ông.
Giọng của Mẹ trở nên tha thiết lạ kỳ:
-          Các em ơi! Các em có biết không, mỗi khi đứng trên bục giảng, Cô cảm thấy xúc động lắm! Cô nghĩ mình không lầm khi chọn dạy môn Việt Sử. Cũng vì Cô có những học trò chăm ngoan như thế này. Khi Cô giảng bài, đặc biệt đến những đoạn anh hùng liệt nữ hy sinh chống giặc ngoại xâm, Cô như được sống trong khung cảnh đó, lòng tràn đầy sự ngưỡng mộ và hãnh diện. Các em nhớ đừng bao giờ xem nhẹ môn học này nhé! Nó không phải là môn học để “kiếm điểm”, mà là môn học để làm công dân, để làm người.
Tôi sửng sốt. Trời ơi, sao Mẹ lại có thể nói năng lưu loát như vậy? Tôi bỗng nghẹn ngào. Mẹ, Mẹ ơi! Mẹ đang sống lại trong vùng ký ức dài hạn tuyệt vời. Con lâu nay hầu như quên mất một điều rất vinh dự cho chúng con: Mẹ đã từng là người thầy dạy Sử!

**

Chị Vân trở thành người “giám thị” đắc lực cho “lớp học Sử” của Mẹ. Chị sắp xếp “lớp học”, đôn đốc các “học trò” vào ngồi cho ngay ngắn, không “nói chuyện trong lớp”, rồi chính chị cũng ngồi vào ghế, làm một “học trò” ngoan ngoãn của “cô giáo”. Những khi có chị Hai ở nhà hoặc có tôi đến, chúng tôi cũng ngồi vào chỗ, chăm chú ngước nhìn “cô giáo”, uống từng lời giảng của “cô”. “Thầy trò” dạy và học trong một lớp học “đồ hàng” như vậy, thế mà bỗng như thấm dần từng lời, từng câu… Có khi mắt của Mẹ như đứng lại, nhìn đăm đăm vào một khoảng trống rỗng. Lúc đó Mẹ không nhớ được một chữ. Nhưng có lúc mắt Mẹ bừng sáng, và ý tứ ở đâu tuôn tràn, Mẹ bắt đầu “giảng bài” say sưa.
- Các em học thuộc cho Cô bài văn vần này trong Đại Nam quốc sử diễn ca,  đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt.
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy danh động tới Bắc Phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
Trước là nghĩa, sau là trung
Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.

Chúng tôi vỗ tay hoan hô Mẹ. Mẹ nhớ tài tình những chi tiết trong bài Việt Sử. Tôi hết lời khen ngợi cho Mẹ vui, mà cũng hy vọng rằng nhờ cái vui đó mà Mẹ sẽ nhớ lại nhiều hơn. Nhưng tôi bỗng nhiên cảm thấy một nỗi buồn lạ lùng chớm lên trong lòng. Thời gian sau 1975, môn học Sử là môn thay đổi nhiều nhất. Lịch sử đã được nhìn qua một lăng kính khác. Mọi giá trị đảo lộn. Tôi nhớ các em mình đã phải học như vẹt những bài lịch sử “đánh cho Mỹ cút nguỵ nhào”, còn những cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm từ bao nhiêu đời đều được viết lại với cái vỏ bọc giai cấp. Thật đáng buồn. Học trò học Sử một cách qua loa, lấy lệ, miễn sao đạt đủ điểm khi đi thi. Các em tôi càng ngày càng chán học môn Sử. Một điều rất dễ hiểu là thầy dạy không hay thì trò dễ chán. Mà thầy không thể nào dạy cho hay được, khi mà những điều thầy phải nói lại đi ngược với lòng của thầy. Vì thế, dần dần môn Sử biến thành một món ăn khó nuốt. Người ta, cả thầy và trò đều muốn trốn khỏi nó. Nhưng vẫn cứ phải dạy và học.
Còn ở xứ này, tôi có tìm hiểu học trò học môn lịch sử ra sao, một người bạn nói:
-          Môn Sử ư? Là công dân thì ai cũng học môn Sử. Chẳng có gì để băn khoăn cả.
Bạn nói thêm:
-          Đất nước này có lịch sử chỉ hơn 200 năm, nhưng sách vở và sự đầu tư vào môn Lịch Sử không phải ít. Điều đáng nói là… khi viết Sử, phải công bằng, không thiên kiến, không hận thù.

**

Hôm nay tôi đến, rủ Mẹ vào thăm “bà bạn trong gương”, nhưng Mẹ lắc đầu. Mẹ có vẻ giận hờn. Tôi bật cười. Có ai đó đã nói “Người già cũng như con nít”. Điều này ai có cha mẹ già đều thấy rất rõ. Tôi hỏi chị Vân. Chị ấy ra hiệu bằng mắt bảo tôi lờ đi. Tôi ngồi xuống cạnh bên Mẹ, hỏi:
-          Mẹ không khỏe hở Mẹ?
-          Khỏe, khỏe lắm chứ!
-          Vậy Mẹ hãy vào lớp, học trò đến đông đủ rồi!
-          Không vào.
-          Sao vậy Mẹ?

Mẹ chỉ chị Vân:
-          Cô đó… cô đó nói tầm bậy.
-          Sao Mẹ?
Mẹ ngập ngừng, tìm lời:
-          Cô đó… nói không đúng.
-          Mẹ từ từ, kể cho con nghe đi!
-          Cổ nói… học trò của Mẹ… xé bài, xé đề… thi…
Chị Vân nói ngay:
-          Dạ con không có nói học trò của bác ạ.
Mẹ tức tối:
-          Học trò là học trò của tôi. Học trò… học Sử là của… tôi.
-          Dạ, dạ, được rồi, học trò của bác.
-          Ừ, học trò của tôi không có xé sách, không có xé bài… Học trò của tôi ngoan lắm, đứng đắn lắm…
Tôi chưa hiểu chuyện gì. Chị Vân đưa một tờ báo cho tôi xem, phân bua:
-          Đây nè cô, mình chỉ có đọc cho bác nghe bài báo này mà bác nổi giận lên.
-          Chị cho em xem!

Tôi nhìn vào trang báo. Hình ảnh chụp một phần của một ngôi trường tại Sài Gòn, có ít nhất 3 tầng, với các học sinh đứng ở lan can, xé giấy thả trắng xóa xuống sân trường. Bài viết tường thuật rằng việc đó là do các em vui mừng xé những “đề cương” khi nghe tin không phải thi tốt nghiệp môn Sử:
“Được biết, clip này được quay tại Trường Nguyễn Hiền (Quận11, Sài Gòn) vào ngày 30/3/2013, một ngày sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo 6 môn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm nay (Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Hóa học, Địa lý, Sinh học). Thông tin từ một số học sinh Trường Trung học phổ thông Nguyễn Hiền cho biết, đây không phải là năm đầu tiên học sinh xé đề cương môn không phải thi tốt nghiệp mà là đã có “truyền thống” từ khóa trước.”
Chị Vân thở dài:
-           Mình đâu có nói gì thêm với bác, nhưng cũng áy náy vì đã lỡ giải thích cho bác nghe, không ngờ bác giận.
-           Mẹ không giận chị, Mẹ chỉ giận cái sự việc.
-           Mà học trò ngày nay ở Việt Nam hư quá phải không cô? Thời của mình, học sinh kính nể thầy cô tuyệt đối, luôn sợ thầy cô buồn lòng.
-           Chị à, các em ấy cũng không hẳn là không nể thầy cô, cũng không hẳn là không thích học Sử. Nếu môn Sử được biên soạn kỹ lưỡng và công bằng, được dạy một cách nghiêm túc, thì sẽ không có một học sinh nào nói là mình chán môn Sử. Mẹ của em đã từng là người thầy dạy Sử. Mẹ diễn tả như thể Mẹ sống trong từng khung cảnh nơi sự kiện lịch sử ấy diễn ra. Mẹ hân hoan với niềm vui đất nước được thanh bình và Mẹ khóc khi những người yêu nước bị đày đọa. Như vậy, làm sao Mẹ không có những người học trò yêu quý môn Sử như Mẹ?
Tôi nói hăng hái như tôi cũng đã từng ngồi ở lớp dạy Sử của Mẹ. Khi dừng lại, tôi thấy chị Vân mắt đỏ hoe.
Mẹ mỗi ngày một yếu. Đi đâu chúng tôi cũng đẩy Mẹ trên xe lăn. Mẹ ít sử dụng cái walker. Nhiều khi Mẹ nhìn mặt con cháu mà không nhận ra là ai. Bác sĩ Stevens bảo điều đó xảy ra ở đa số người già, khi những phần trên não liên quan đến trí nhớ dần dần thoái hóa. 
Nhưng tôi biết có một phần không bị thoái hóa. Đó là phần liên quan đến trí nhớ Sử học của Mẹ. Tôi không biết các nhà khoa học đã định vị nó rõ ràng chưa. Nhưng tôi tin có nó. Tôi tin một cách huyền bí, không cần giải thích. Bởi vì mỗi khi tôi hay chị Vân hay những người con cháu đến ngồi nghiêm trang trước cái bục giảng vô hình và tấm bảng đen cũng vô hình, thì Mẹ bắt đầu giảng, mỗi lần một bài. Giọng Mẹ thiết tha, không hề ngắt quãng, như thể cái khí lực của một nhà giáo gắn bó đời mình với môn Sử học vẫn không hề suy suyển. 

Một đêm, tôi ở lại với Mẹ. Khi chợt thức giấc trong đêm khuya, tôi nghe Mẹ nói với “bà bạn trong gương”:

-           Bà ạ, tôi thích nhất là đoạn này này! “ Mồng Năm Tết, vua Quang Trung đem mười vạn quân ra Bắc, liên tiếp chiếm Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa, rồi kéo vào Thăng Long. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, cùng hàng vạn binh sĩ tháo chạy về Tàu. Bọn chúng tranh nhau qua cầu sang sông làm cầu gãy, quân giặc xô nhau rơi xuống sông mà chết, làm nước sông bị tắc không chảy được. Vua Quang Trung khải hoàn vào thành Thăng Long với chiếc áo bào nhuộm màu khói súng trong sự nô nức đón chào của nhân dân. ”

Mẹ không quên Sử Việt!
 
Tháng 5, 2013
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

(Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 56)

 





THƠ ĐINH CƯỜNG


Đang ngồi vẽ bầy chim nhớ Tô Mặc Giang

 


                                                           Tô Mặc Giang. Tạ Tỵ vẽ 1980
                                            
                              
                            Bóng chim chiều thao thức tiếng kêu sương     
                                                                        (Tô Mặc Giang)
 
Tô Mặc Giang bây giờ tóc bạc trắng
trở lại sống ở vùng đảo Hawaii
nhớ bạn ngày xưa rời vùng Mạc Cửu - Hà Tiên
lên Sài Gòn  ở nhà thầy Trần Cảnh Hảo
bên hông sân đá banh trường Petrus Ký

ở đó chúng ta có thật nhiều kỷ niệm
tuổi nào đẹp hơn tuổi học trò
sau đó cùng mê văn nghệ
Tô Mặc Giang ơi
Dường như sông sài gòn vẫn chảy
chiều nay. tôi nhìn thấy bạn. đi cùng với đinh cường
trên phố bonard
tóc bờm xờm. lộng gió…[1]
có thời cùng giang hồ ra Huế
cùng trong nhóm làm tờ Thể Hiện
tính đến nay cũng đã năm mươi năm

rồi thời nhập ngũ, sau bạn mang lon đại úy
làm phòng chiến tranh chính trị Quân Đoàn 2, Pleiku
nhớ Diên Nghị nhớ Kim Tuấn
Kim Tuấn đã mất thật buồn, Diên Nghị đang ở San Jose
nhớ hoài Thiếu Tá Dương Diên Nghị
cho trực thăng đón tôi từ Đà Lạt qua Pleiku uống cà phê
cùng các bạn ở câu lạc bộ Phượng Hoàng …

một thời tình bạn bè thật đẹp, nhớ cả Yên Khanh mất đã lâu
nhớ chiếc jeep của trung úy Nguyễn Xuân Thiệp
trưởng đài phát thanh quân đội Đà Lạt
đêm nào cũng ghé đường Rose
chở Trịnh Công Sơn và tôi đi uống bia ở kiosque Dì Ba

trở lại Tô Mặc Giang, sau 75 đi tù Cộng Sản cũng bảy tám năm
có thời ở cùng trại Nam Hà với Tạ Tỵ
nên có cái chân dung Tạ Tỵ vẽ Trầm Trọng Tài rất hay [2]
và thời Mưa Sơn La thương tặng Phạm Tịnh-Trang     
người vợ tù cải tạo, nhớ ngày đám cuới bạn ở Huế tôi làm phụ rể 

chiều nay đọc lại tập thơ bạn gởi tặng gần đúng một năm
ngày về thăm bạn ở Cali. cùng Huy Phương ra quán ăn Huế
Gíó, cũng nói lời từ biệt, bỗng nhiên nhớ người bạn thiết [3]
tôi đang vẽ  bức bầy chim mây nhiều quá bay không nổi …

Virginia, June 21, 2013
Đinh Cường

[1] Lời gởi tô mặc giang - thơ nguyễn xuân thiệp - blog NXT 
[2] Tô Mặc Giang, tên thật Trầm Trọng Tài, sinh năm 1938 tại Hà Tiên 
[3] Gió cũng nói lời từ biệt - thơ Tô Mặc Giang- Đông Phương xb, Cali. 2012

 

Friday, June 21, 2013

TẠP BÚT LƯU NA



Lời tạ lỗi với Jrai





Hôm có người nhắn ông anh miền Bắc gửi cho cuốn sách tôi chỉ dạ dạ thờ ơ.  Lúc đó tôi đang mang một nỗi buồn đất trời đảo lộn, chữ nghĩa có là gì nữa đâu.  Vả, tôi nghĩ đó là bộ sách 700 trang mà tôi không muốn đọc, nên vờ nó đi.  Vài tuần sau tôi gửi thư cám ơn anh, mà thực ra cũng chưa biết đó là cuốn sách gì.  Cùng lúc đó, cho trọn một lời hứa, tôi đặt mua 2 cuốn sách một cho mình một cho bạn hết 45 đồng, mà hỡi ơi, sách về bạn thản nhiên nói có rồi -người ta đã gửi cho bạn.  Tôi buồn hơn  -cái buồn thấm đọng ngậm ngùi nỗi mình cứ bị dối, ngao ngán như cát vào miệng.  Gắng gượng, tôi hỏi thăm xem cuốn sách ông anh cho là gì, nghĩ mình phải biết để mà nói dóc!!!

   Vậy rồi em túm được tôi, Amai B’Lan -Nước Mắt Của Rừng.  Chỉ một câu nói “Jrai!  Tôi chỉ là một người khách qua đường, dừng chân nơi đây một thời gian, dậy năm ba chữ cho các em như một làn gió…” em đã túm được tôi, đã mở bật một cánh cửa hồn tôi khép lại từ lâu. 

Phải nói rằng tôi ham đọc truyện đọc văn Việt lắm. Những ngày đầu tỵ nạn tôi đã đọc mờ cả mắt, cận thị lên 5 độ.  Tôi là con nợ của nhà Tự Lực, đến nỗi mua sách không mang đủ tiền bà chủ bảo cứ rước về đi, mai mốt trả sau.  Nhưng chữ rồi cũng phai, lời rồi cũng nhạt, đất trời qua đi nỗi buồn tỵ nạn vẫn là một vết sẹo chỉ có thể chữa tàm tạm bằng cách vờ nó đi.   Và chữ cũng đổi theo người.  Tôi thôi đọc tiếng Việt.  Một thời gian dài tôi vùi đầu vào truyện Mỹ.  Khi tôi đọc tiếng Việt trở lại, tưởng mình đang đứng ở tháp Babel.  Tôi không hiểu ngôn ngữ tâm tình của những người viết bây giờ, họ viết hay lắm và cũng giống nhau lắm đến nỗi tôi tưởng mình đã trở thành một giống dân lạ.  Tôi vẫn thèm đọc mà chữ thời buổi này đã từ bỏ tôi rồi.

Cũng phải nói thêm, sách giới thiệu sách lời dẫn cho lời, trước giờ tôi đọc hết cuốn này đến bài khác bằng vào lời giới thiệu bằng vào chủ đề bằng vào một mạng lưới chữ nghĩa, nhưng đây là lần đầu tiên tôi túm lấy một quyển sách chỉ vì một lời nói đơn sơ như vậy.

 “Trước khi lên đây tôi vạch ra không biết bao điều muốn dạy cho các em.  Nhưng bây giờ tôi chỉ còn một ước muốn nhỏ nhoi là các em sẽ biết cộng trừ nhân chia, biết viết tên của mình khi người ta hỏi…,” Amai B’Lan đã viết tập bút ký mỏng của mình xem như “một lời tạ lỗi,”  “với tất cả bạn bè Jrai, học trò của tôi và cả những bờ sông.  Vì tôi là người Kinh.”  Nơi câu nói giản dị ấy tôi cảm như em đã viết bằng hồn em, một tâm hồn trong trắng với những lời nói tinh tuyền không màu mè chữ nghĩa thời thượng, không sắc như mã tấu xẻ lưng banh lồng ngực, không hóc hiểm như dao quắm móc vào ruột..  Nước Mắt Của Rừng đóng góp những chi tiết về Tây Nguyên và tộc Jrai, góp cái nhìn về một sắc dân đã bị lãng quên và nay đang bị chà đạp, những gì đang xảy ra với Jrai ở Tây Nguyên, một vấn đề xã hội cũng như một vấn đề nhân bản, và đưa ra một cách để tiếp cận.  Bút ký của em gợi lại cái thời sinh viên Nguyễn Đức Quang Đỗ Ngọc Yến và nhiều nữa những bạn đồng trang lứa đã làm công tác thanh niên phụng sự xã hội thuở xưa.  Bút ký của em còn mang lại cho tôi một cái nhìn mới và thiện cảm hơn về công việc truyền giáo nói chung và của vị thừa sai đầu tiên nơi Tây Nguyên: không đến “để thay thế tôn giáo tự nhiên của người Jrai bằng Kitô giáo, mà đến với tư cách một chứng tá tình yêu để chỉ cho họ thấy rằng, có một Đấng Cao Trọng luôn yêu thương họ.

Trong cái nhìn nghiêm chỉnh có suy nghĩ, em đã đưa ra vấn đề với những dòng chữ mang một chiều sâu nội tâm chứ không bằng những lời hời hợt kêu vang vô nghĩa.  Tôi cho rằng viết câu giản dị, viết lời thành thực, viết với một hiểu biết đứng đắn, viết với rung cảm sâu xa, tất cả làm nên một tiếng văn hay, có hồn, và em đã làm được điều ấy với tập bút ký mỏng manh kể lại khoảng thời gian lên Tây Nguyên dạy học cho các em Jrai.  Đọc Nước Mắt Của Rừng tôi biết thêm một chút và mừng thêm một chút, mừng chữ chưa hẳn bỏ mình.

Về hình thức, bìa Nước Mắt Của Rừng có màu sắc đẹp và trang nhã, trình bày cân đối bắt mắt, nhưng tôi không thích bức vẽ cho lắm vì nó có vẻ chả dính dáng gì với nội dung (biết, tôi biết không nhất thiết, và bức vẽ cũng không phải là xấu!!!).  Sách có nhiều hình ảnh (in khá đẹp), là một ưu điểm lôi cuốn cho đề tài; ghi chú ngay bên dưới tiện cho người đọc, nhưng nếu chuyển tựa, số trang, và tên tác giả lên bên trên chắc đỡ rối mắt hơn. 

Và tên em có nghĩa gì không: Amai B’Lan?


Lưu Na _
06/19/2013

Thursday, June 13, 2013

HẠT BỤI CHUNG THÂN

Trịnh Cung



                                          Nhũng cây sồi ở công viên Arcadia. Trịnh Cung vẽ


                             Gi ĐC va NXT 
Chẳng biết bao lâu ngươi ở đây
Ch ta lạc bước đến nơi này
Cây, người ai biết cho tiền kiếp
Có phải em về mang phận cây?  

Đi sắp cuối trời nghĩ kiếp sau
Ra sao, tất mặc số thai đầu
Nếu cho được chọn, xin Trời Đất
Hạt bụi chung thân dãy địa cầu. 

Arcadia,
J. 2013
TC.

 

Tuesday, June 11, 2013

thơ đinh cường


BỖNG NHIÊN MÀ NHỚ VỀ VƯƠNG PHủ
thắp cây hương cho Võ Ngọc Trác 


                                       
                                                       Võ Ngọc Trác. Đinh Cường vẽ
 



                                           Võ Ngọc Trác ngồi xem Đinh Cường
                                             vẽ ở Lăng Tự Đúc, Huế 1962

Nhớ trưa nắng lửa về Vương Phủ [1]
Bửu Ý cùng tôi chụp  tấm hình
cổng đóng then cài hồn phế tích
ngõ vào xóm lạ thấy buồn tênh

Vương Phủ hồn thơ Tuy Lý Vương
như hong trong nắng chói, xanh vườn
cau cao mấy ngọn không còn nữa
ghé nhà thờ Trác thắp cây hương

Võ Ngọc Trác ẩn mình lâu Vỹ Dạ [2]
cứ đi lên đi xuống một con đường
nhớ anh bên mấy chồng sách cũ
dịch Le Cimetière marin - Paul Valéry

Nghĩa trang hải viện sao mà đẹp
như con chim biển sóng xô bờ
vườn tranh nghe rắn trườn qua cỏ [3]
mà bổng nhớ người thơ rất thơ…


Virginia, June 9, 2013
Đinh Cường

[1] Còn gọi Phủ Tuy Lý hay Phủ Ba Cửa, Vỹ Dạ - Huế

[2] Võ Ngọc Trác ( 1923 – 1991 ) , sinh và mất tại Vỹ Dạ
nhà thơ nổi tiếng với thi phẩm  Thượng Thẩm , xb 1957 - Huế
chuyên làm thơ tự do, siêu thực, haiku, tanka, đường luật
một số bài thơ đã đăng trên tạp chí Văn - Sài Gòn năm 1969

[3] câu thơ của Phạm Công Thiện khi ra Huế ghé thăm VNT, 1969