Thursday, October 25, 2012

SINH HOẠT VĂN HỌC NGHỆ THUẬT


Chiều Bên Tách Cà Phê










    Buổi giới thiệu sách của Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp với tên gọi "Chiều Bên Tách Cà Phê” là một chương trình văn học thơ nhạc mùa Thu do Trẻ Magazine và thân hữu tổ chức vào chiều Thứ Bảy 20 tháng 10 năm 2012 vừa qua tại thành phố Garland, Texas. Đây là một chương trình  mang không khí trữ tình, thi vị và nghệ thuật hiếm thấy tại Dallas/Fort Worth, đã tạo được sự thích thú và ấn tượng đẹp cho hơn 100 văn nghệ sĩ, thân hữu cùng giới truyền thông hiện diện.
    Người điều hợp chương trình là anh Đinh Yên Thảo của Trẻ Magazine đã lên giới thiệu chương trình  văn nghệ ra mắt ba cuốn sách vừa phát hành của Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp gồm có thi phẩm "Tôi Cùng Gió Mùa" được tái bản, thi phẩm "Thơ Nguyễn Xuân Thiệp” và tuyển tập văn "Tản Mạn Bên Tách Cà phê” và cho rằng có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi khi một chương trình ra mắt sách giới thiệu đồng lúc cả ba tập sách mới của cùng một tác giả. Anh cũng đã giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Xuân Thiệp, là một nhà văn đồng thời và thân thiết với nhiều văn nghệ sĩ miền Nam trước năm 1975. Ông bắt đầu sáng tác từ trước năm 1954 khi còn học Trung Học ở Huế. Từ 1958 đến 1963, ông dạy học tại Mỹ Tho. Sau đó, khi vào quân ngũ, ông được biệt phái làm việc tại Đài Phát Thanh Đà Lạt, rồi về Đài Phát Thanh Quân Đội Sài Gòn. Sau 1975. ông đi tù CS đến năm 1982. Khi định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Xuân Thiệp tiếp tục cộng tác với các tạp chí văn học hải ngoại như Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Đài Á Châu Tự Do, Đài Tiếng Nước Tôi Dallas, Đài Sài Gòn-Houston, Đài Việt Nam Hải Ngoại... Ông là Chủ Bút tạp chí văn học Phố Văn từ năm 2000-2008 và hiện đang cộng tác cùng Trẻ Magazine sau khi Phố Văn đình bản.
    Nhà văn Nguyên Nhi lên nói về thơ Nguyễn Xuân Thiệp với một bài nói chuyện êm như thơ, và lãng mạn với cơn gió khởi đi từ khu vườn xưa Vương Phủ, đưa thơ khởi hành bay vào không gian của cuộc chiến rồi qua lưu đày đất Bắc để tới nơi này. Khi nhận xét về thơ Nguyễn Xuân Thiệp, Nguyên Nhi cho rằng, "Thơ nồng nàn mà không bi lụy. Thơ ngang tàng mà không khinh bạc. Thơ và gió thiết tha cùng cuộc tử sinh này...".
    Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp cũng lên cảm tạ quan khách và trình bày ngắn gọn về hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm phát hành. Thi tập "Tôi cùng gió mùa" là những bài thơ khi còn đi học và lang thang trên các hè phố, cho đến khi vào quân ngũ, đến lúc vào tù cộng sản thì các câu thơ là những "tụng thi"- sáng tác ngay trong lúc đi làm việc khổ sai, ghi nhớ rồi viết ra giấy, học thuộc, đêm về nhẩm đọc trong tiềm thức như những bài kinh nhật tụng, cho đến lúc thuộc lòng để đến khi ra tù mới thành thi phẩm. Tập "Thơ Nguyễn Xuân Thiệp" làm tại hải ngoại, sáng tác theo những cảm xúc về cuộc sống nơi xứ người. Và tập tản văn "Tản Mạn Bên Tách Cà Phê” là những bài viết ngắn khi ông là chủ biên tạp chí văn học "Phố Văn", hoặc đăng trên blog cá nhân, các website và trên Trẻ Magazine. Tưởng cũng nên mở ngoặc về các bài tản văn Bên Tách Cà Phê có thể coi như là những áng văn chương đầy chất thơ, đầy kỷ niệm và hoài niệm, về những nơi ông đi qua, những người bạn đã gặp và những cảm xúc đời thường đầy lãng mạn và trữ tình cũng như thơ của ông. Cũng khá hiếm hoi để có nhiều người có lối viết như ông, của một  "Thi sĩ thành Troie vẫn sống". Một độc giả trẻ là cô Hồng Tiên, một sinh viên trẻ tại Collin County College có cảm tưởng về Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp như sau "Cháu có đọc thơ của bác Nguyễn Xuân Thiệp và rất thích, cũng như có nhiều cảm xúc về những bài thơ của ông. Cháu sẽ dịch sang Anh ngữ và cháu sẽ sáng tác những bản nhạc phổ thơ của ông."


    

    Một chương trình văn nghệ mang không khí cổ điển, thính phòng với tiếng guitar, dương cầm thánh thót, và một số ca khúc của Nguyễn Xuân Thiệp được phổ nhạc, cùng những bài hát tiền chiến hay các ca khúc mùa Thu của các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên... đã được các giọng ca ngay tại Dallas như Lan Hương-Trần Đại Phước, Lệ Hiền, Bích Vân, Trần Văn Khôi, Cẩm Tú, Thu Đào, Hoàng Chu, Tôn Thất Phương, Thọ Đỗ, Nguyễn Ngọc Tiến, Thanh Hằng, Chí Thiện diễn tả thật xuất sắc, điêu luyện với các bè hợp âm được biên soạn chuyên nghiệp và công phu, được những vị khách tham dự thanh nhã và yêu thi ca hiện diện từ trước giờ khai mạc cho đến giây phút cuối chương trình vỗ tay nồng nhiệt. Đặc biệt hơn nữa là BTC đã chuẩn bị khá chu đáo với cách trang trí lá thu vàng, hoa tươi, hình ảnh mùa Thu chiếu trên màn ảnh lớn, rượu vang đỏ, mùi cà-phê starbucks, bánh ngọt quyện nhau... đã làm khung cảnh thật hữu tình và thi vị hiếm thấy.
     Phải cảm ơn thi sĩ Nguyễn Xuân Thiệp về những tác phẩm văn học rất đáng để đời, các ca nhạc sĩ đã cống hiến những lời ca, tiếng nhạc đã làm khán giả ngây ngất trong chiều Thu đẹp và cảm ơn BTC đã thực hiện một chương trình văn học nghệ thuật thật giá trị đến vậy.
(theo Phương Thụy & P.V. Báo Trẻ)






THƠ THẬN NHIÊN

ngày mưa ở COK* 



                                                Chiêu Anh Nguyễn

bữa mưa dầm tôi leo xe buýt
từ thủ đức xuống tân bình
xuống ở trạm có chỗ ngồi bên nắp cống

chỗ ngồi tên cok - chiêu
tôi định ngồi từ sáng tới chiều
chủ không đuổi thì ngồi tới khuya lơ khuya lắc
nếu không còn xe buýt
thì tôi ngồi tới mai tới kia
tới hết đời
tôi uống cà-phê rồi trà đá rồi trà đá cà-phê
tôi ngáp vặt hút thuốc lá vặt
giả bộ ngồi thiền nhịn đói suy tư
ngó mấy em chân dài tự hỏi sao mình ở không mần chi, phí vậy?
rồi ngó mông xe cộ chen nhau trên con đường chật
lần lượt xua tay không mua vé số 13 lần
lắc đầu với ăn xin 4 lần
mấy thằng giựt dọc chạy ngược chạy xuôi kiếm mánh
hai anh an ninh dựng xe bên đường ngó qua
họ canh me một cô nhỏ mần dân chủ
con chuột đủng đỉnh qua đường bị xe cán phèo ruột

trời mưa nặng hạt
tôi dời bàn vào trong nhà
ở đây có nhiều hảo hán
những thuyết gia chém gió không biết mệt
chuyện kinh bang tế thế
chuyện ông trắng ông đen vờn nhau bên mỹ
ông tập ông ôn bên tàu
chuyện xăng tăng rồi chuyện biển đảo
chuyện đại sự và chuyện ruồi bu
chuyện tư đá đít ba rồi ba bạt tai tư
rồi hai đứa hôn nhau tha thiết
chuyện thơ thằng này dở văn con kia hay
giải nobel và cái giải con tườu chi chi ở ngoài hà nội
cái thời chi lạ
dân làm báo quan làm báo vua làm báo
đảng làm báo ma le làm báo
gái bia ôm làm báo
ngó đâu cũng thấy âm mưu
cũng gai mắt trái tai
mà đứa nào cũng ngứa mồm đếch ngán
chuyện blog bliếc giỡn chơi mà ở tù thì ở tù thiệt

mưa lèo phèo từ sáng tới chiều
tôi muốn ngủ gà ngủ gật một giấc tới kiếp sau
con đường không bao giờ thưa
quán không lúc vắng
khách quen mặt
kẻ này tới kẻ kia đi
chiêu cười hoài mệt bắt đầu nổi quạu
khi nào tạnh mưa?
tôi xô ghế đứng dậy tính tiền
mấy con chuột hóa long
theo nước ngập chui hết xuống miệng cống
hay mình xuống cống rồi theo rồng ra biển
có khi bay lên trời

xe buýt sắp hết chuyến chót
Sài Gòn còn chỗ nào vui để rượn không ta?
TN


*COK: quán cà-phê của nhà thơ Chiêu Anh Nguyễn, một nơi để văn nghệ sĩ Sài Gòn la cà. Nơi có cà-phê tuyệt ngon, giá phải chăng, và cô chủ thi sĩ hơi bị tài hoa và xinh đẹp. Nơi, kính mời!

Thursday, October 18, 2012

SINH HOẠT VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Chiều Bên Tách Cà Phê
Tại Genesis, Salon de Fiestas
1146 Beltline Rd.
Garland, TX 75044
Chiều Thứ Bảy 20 tháng 10.2012, từ 2:00PM đến 5:PM.



Thursday, October 11, 2012

Tôi biết khóc, biết kêu bla, bla, bla *


Ý Nhi

 

                                                     Doll. by Kim Roberti

           Nhà anh ở tầng bốn một chung cư cũ, không có thang máy. Con còn nhỏ, vợ sau giờ làm ở sở còn phải chợ búa, cơm nước, giặt dũ. Anh có trách phận hàng ngày xách rác đi đổ. Sáng sớm, khi xuống nhà tranh thủ đi bộ vài vòng lúc phố phường còn vắng vẻ, anh xách theo bịch rác đã được vợ thu dọn gọn gàng. Anh làm công việc này giỏi giang đến nỗi chưa bao giờ bị vợ than phiền. Nhà anh dọn về đây bốn năm, nghĩa là anh đã đi đổ rác hàng ngàn ngày.
            Sáng nay, anh vừa huýt sáo khe khẽ vừa chạy xuống cầu thang, tâm trạng hoàn toàn thư thái. Anh ném bịch rác vào cái thùng sắt vuông màu xanh lá cây của công ty vệ sinh, vừa định quay đi thì nhìn thấy ngay dưới chân mình một con búp bê xinh xắn. Nó đội mũ đỏ, mặc váy trắng chấm bi xanh, hai tay chắp trước ngực, đôi mắt cúp xuống, khoe một hàng mi dày. Hơi phân vân một chút nhưng anh tặc lưỡi, chắc ai đó chơi chán rồi bỏ đi cho đỡ chật nhà. Nhưng đúng lúc dợm bước đi anh bỗng nghe một tiếng động khe khẽ rồi trông thấy con búp bê cựa mình, bật kêu lên mấy tiếng kỳ lạ bla, bla, bla. Anh cúi xuống, con búp bê nhìn anh bằng đôi mắt xanh biếc màu trời, môi mấp máy, tôi biết khóc, tôi biết kêu bla, bla, bla. Anh đứng im để định thần rồi cúi xuống nhặt nó lên, đem đặt trên chiếc ghế đá gần thùng rác nhất. Dãy ghế này được đặt theo sáng kiến của hội Người cao tuổi trong chung cư. Đó là nơi chiều chiều các cụ ông cụ bà từ bỏ căn phòng chật chội đến ngồi bên nhau, than van, kể lể chuyện con chuyện cháu, hỏi han bệnh tật của nhau, khuyên nhau tập thể dục, bày nhau uống các thứ thuốc nam, thuốc bắc… Đây cũng là nơi các bà nội trợ nghỉ chân khi tay xách nách mang từ chợ trở về, lấy sức để leo lên cái cầu thang dựng đứng. Dân sống trong chung cư gọi đó là đường lên trời.
            Anh đi bộ năm vòng, như thường lệ. Lúc về, anh dừng lại chỗ chiếc ghế, có ý tìm con búp bê nhưng thay vào đó là bà cụ già ở tầng hai, đang đưa đôi tay gầy guộc xoa xoa vào chiếc đầu gối  sưng lên vì thấp khớp. Bà thường ngồi đó, lặng lẽ nhìn người qua lại, rên khe khẽ, không rõ vì cơn đau hay chỉ là một thói quen. Anh đã nhiều lần trông thấy bà cụ nhỏ bé, mặc áo cánh nâu, đầu vấn khăn ngồi ở chiếc ghế này nhưng hôm nay trông cụ lạ lạ trong chiếc áo sơ mi màu tím sẫm với đường viền đăng ten trắng khá diêm dúa. Có lẽ đó là chiếc áo đã lỗi mốt của người con dâu. Anh định hỏi bà về con búp bê rồi sợ phiền, lại thôi. Anh nghĩ, chắc có ai đó đã nhặt nó và cảm thấy an lòng. Anh gật đầu chào bà cụ rồi đi thẳng về phía cầu thang.Thế nhưng, khi vừa đặt chân lên nấc thang đầu tiên, anh đột ngột quay ngoắt lại, chạy đến  chỗ thùng rác. Khi nhìn thấy con búp bê nằm xóng xoài, lem luốc giữa các bịch rác, anh bật kêu trời đất, rồi đứng chết trân như người bị thôi miên. Có ai ở phía sau vừa ném thêm một bịch rác qua vai anh, che khuất hoàn toàn con búp bê. Người đó hỏi anh, anh tìm gì vậy. Anh quay lại, gặp ngay khuôn mặt nhăn nhó của tay hàng xóm, không, tôi có tìm gì đâu. Anh cứ đứng như thế, bất lực nhìn những bịch rác được ném tới tấp, chồng chất lên nhau. Chẳng mấy chốc cái thùng sắt to đùng đã ngập ngụa những rác là rác.

            Vợ anh hỏi, anh sao vậy, đau bụng à, khi thấy anh ngồi bần thần trước bát mì đang bốc khói. Anh đáp, vẻ thản nhiên, anh hả, khỏe như vâm, đau ốm gì đâu. Vợ anh không trả lời, lẳng lặng đưa thìa đũa cho chồng. Vợ anh là một phụ nữ xinh đẹp,tháo vát, sắc sảo. Có lần, trong bữa tụ họp gia đình vào ngày chủ nhật, bố vợ anh nửa đùa nửa thật, bảo con gái, con vừa vừa phải phải thôi, nhìn mẹ kìa, cả đời chưa nói nặng một câu, chưa căn vặn, cật vấn chồng lấy một lần. Ông bà dạy, lạt mềm buộc chặt con ạ. Vợ anh nũng nịu, bố, bố vạch đường cho hươu chạy à. Có mà chạy đằng trời, anh nghĩ. Anh có cảm giác, nhất cử nhất động của anh đều không qua khỏi mắt nàng. Anh ăn chưa xong bát mì, nàng đã bưng đến cốc ca-phe pha sẵn, ánh mắt dò xét, dứt khoát là anh có chuyện. Anh vừa thổi vừa uống hết chỗ ca-phe, đẩy ly nước ra xa, cười cười, em có chuyện thì có. Đôi khi, mắt mình mờ mà lại cho rằng hình ảnh kia không rõ. Nàng đến sát bên anh, anh soi gương mà xem, anh cười kiểu gì mà như mếu vậy. Anh đột nhiên đứng phắt dậy, anh có chuyện, anh có vấn đề, chuyện gì, vấn đề gì mới được chứ. Mà anh cười như thế nào thì liên quan gì đến em. Anh lao ra khỏi phòng trước ánh nhìn ngỡ ngàng của vợ. Chưa khi nào anh ra mặt chống lại nàng như vậy.

            Anh phanh kít xe khi đã đến sát vạch ngăn cách. Tay công an nhìn anh, không rõ là bằng lòng vì hành động của anh hay nuối tiếc vì bắt hụt một con mồi. Đến lúc đèn xanh bật lên, anh lại bị mấy chiếc xe phía sau rú còi inh ỏi. Một cô váy đỏ khi ngang qua anh, quay lại nhìn soi mói, rõ là ngẩn ngơ. Thấy cô ta rẽ phải, thay vì rẽ theo cùng hướng để đến chỗ làm, anh quay xe rẽ trái. Chỉ cách ngã tư một quãng ngắn, con phố bỗng hẹp lại với hai dãy nhà xây cất giống hệt nhau, các ô cửa màu xanh đóng im ỉm. Có phần hoang mang nhưng anh vẫn đi tới, cũng không hiểu để làm gì. Sau căn nhà cuối cùng, có một thanh barrier bằng sắt chắn ngang đường, giống như chỗ có tàu lửa chạy qua ở đầu phố nhà anh. Phía bên phải có một lối đi nhỏ và một trạm gác. Anh bước tới, vừa lúc một mái đầu bù xù thò ra khỏi ô cửa, anh cần gì. Anh lúng túng, không, tôi vô tình qua đây thôi. Người kia nhại, vô tình, vô tình, ai cũng vô tình. Vậy anh có vô tình trông thấy cái gì ngoài kia không. Theo hướng mắt của ông ta, anh nhìn thấy mặt biển  phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ xanh thăm thẳm. Anh đáp, biển. Người đàn ông cười phá lên, ấy đấy, tôi đã hỏi bao nhiêu người nhưng chỉ mình anh thấy biển. Những người khác cứ ngây ra nhìn tôi như thể tôi lừa phỉnh chi họ. Vậy có nghĩa là anh được đi qua cái cửa này. Anh đi đi, ông ta khuyến khích. Thấy anh lưỡng lự, ông ta dùng tay đẩy vào yên xe, giọng khào khào ma mị, cuộc đời anh là ở bên kia cái cổng nhỏ xíu này. Anh muốn cưỡng lại nhưng cái xe đã lọt qua cửa tự lúc nào và anh chỉ còn cách bám theo nó. Chết tiệt, anh rủa thầm, không hiểu là rủa cái xe, rủa người đàn ông hay là tự rủa mình.

            Câu nói lấp lửng của người đàn ông khiến anh nghĩ đây là khu vui chơi giải trí tưng bừng nhộn nhịp, trai tài gái sắc chạy nhảy tung tăng, áo quần phấp phới, nói cười nghiêng ngả. Nhưng trên mặt cát im lìm, chỉ có mấy chiếc lều lợp lá sơ sịa và một dãy ghế bố xếp ngay ngắn gần sát mép nước. Anh thả bộ dọc theo bờ biển vắng, nhìn những ngấn nước nhẹ nhàng liếm vào đôi chân trần của mình, đầu óc thảnh thơi, vô tư lự. Chỉ đến khi nhận ra những ngấn nước đã dâng cao hơn, tiếng sóng đã vang to hơn, anh mới dạt lên phía trên cao, nơi có vài tảng đá, vài cây tùng đứng trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn. Cách đó một quãng, anh lại nhìn thấy một trạm gác và một thanh chắn giống hệt nơi anh vừa bước vào. Anh ngồi xuống gốc tùng, chân thả xuôi, tay chống vào phía sau, nheo mắt nhìn biển. Biển đã không còn vẻ phẳng lặng như thoạt đầu anh nhìn thấy. Những con sóng dồi lên, dạt xuống khiến biển có vẻ gì đó rất khó lường. Người anh cứ chuồi dần, chuồi dần xuống trong một giấc ngủ nhẹ nhàng, không mộng mị. Bỗng anh thấy có ai đó lay lay vai, rồi nghe thấy tiếng khóc, tiếng kêu bla, bla, bla văng vẳng bên tai. Anh choàng dậy, thấy mình đang bị lèn chặt giữa một đám đông, trước ngọn đèn giao thông vừa đổi sang màu xanh và người ta đang bấm còi inh ỏi phía sau anh. Quái lạ, anh không hiểu điều gì vừa xảy ra trong 99 giây đợi đèn xanh. Có một cô váy đỏ thật. Cô ta đứng rất gần anh, gần đến độ anh nghe thấy mùi nước hoa từ mái tóc nhuộm nâu của cô. Nhưng cô ta không nhìn anh và cũng không nói lời nào với anh. Cô váy đỏ rẽ phải, anh cũng rẽ phải, lòng dạ lửng lơ. Anh liếc nhìn đồng hồ. Nếu không bị kẹt xe, anh sẽ kịp giờ làm. Trưởng phòng của anh là một tay đúng giờ đến từng giây và chi li đến từng xu. Hắn không ghét gì hơn việc nhân viên đi làm muộn và người nào cũng nại ra lý do đường đông, ùn tắc giao thông. Hắn hầm hừ, thế tôi bay từ trên trời xuống à. Mỗi khi có khoản tiền ngoài lương cần chia cho mọi người, hắn đóng cửa phòng, tính đếm cả buổi rồi buộc mỗi phần tiền bằng một chiếc dây thun nhỏ. Trên bàn làm việc của hắn có một chiếc rổ nhựa đựng đầy dây thun. Có lần, vừa bước ra khỏi phòng sep, anh tình cờ nghe thấy cuộc trò chuyện giữa tay lái xe và cô nhân viên nhập liệu mới về phòng. Cô gái hỏi, sep có vợ chưa. Lái xe đáp, rồi, rất xinh đẹp. Cô gái than, thật phí của trời. Lái xe vặn, tiếc à. Cô gái nhún vai, tiếc cho người đẹp. Lái xe bảo, dở hơi à. Người đẹp quyền to lắm, là sep của sep. Sep bà duyệt thì cô mới được vào đây đấy ạ. Cô gái cười phá lên, để mai xem sep mặc quần hay mặc váy. Trông thấy anh, cậu lái xe đưa tay bịt miệng cô, muốn mất việc hả. Anh cười, tôi không nghe thấy gì đâu, chỉ nghe xep, xep thôi. Mà này, nói xấu sep là một phần của văn hóa công sở đấy. Cô gái dứ dứ ngón tay trước mặt anh, anh can tội đồng lõa đấy nhé. Nhớ lại hình ảnh cô gái bé nhỏ đi bên cạnh tay lái xe to như hộ pháp, anh bật cười. Sợ mọi người nghe thấy, anh hắng giọng, cố ho thêm mấy tiếng nữa rồi nhìn quanh dò xét. Nhưng các khuôn mặt đều lặng câm, chăm chăm hướng về phía trước. Anh lầm bầm, bom có nổ mấy người cũng chẳng nhúc nhích, rồi bật kêu thầm, mình thuổng câu này của trưởng phòng từ hồi nào vậy. Mỗi khi công việc chậm trễ, hắn thường đứng giữa phòng gầm gừ, bom có nổ mấy người cũng chẳng nhúc nhích. Câu nói quen tai đến nỗi chẳng còn ý nghĩa răn đe, cảnh cáo, thậm chí, nó đã trở thành một trò đùa. Cứ mỗi lần sep nói chữ bom là cả phòng lại dồn mắt vào cô nhân viên nhập liệu đang hạ giọng nói tiếp: có nổ mấy người cũng chẳng nhúc nhích. Cả bọn phá lên cười, sep cũng cười. Có lẽ ưu điểm lớn nhất của trưởng phòng là không giận lâu và hay quên, nhất là quên tên người. Giao việc cho ông A thì cứ ông B mà hạch hỏi, giao đề tài cho bà C thì nhằm ông T mà thảo luận. Có lần hắn túm lấy anh ngay cửa ra vào, thế nào, muộn cả tuần rồi mà việc của cậu vẫn chưa xong. Anh hỏi việc gì thì được biết đó là đề tài X của ông Y. Nhưng hôm nay thì đúng là ngày anh phải trình bày phương án giải quyết một phần trong kế hoạch chung của cả phòng. Anh chạy xe ngay phía sau cô váy đỏ, mấy lần muốn vượt lên mà lần nào cũng bị cản lại, lúc thì một chiếc xe đạp từ trong hẻm lao ra, lúc thì chiếc tắc-xi bỗng dưng quay đầu, khi thì hai cô cậu chở nhau chạy ào lên từ bên phải. Rồi bất thần, cô váy đỏ đổ rầm xuống ngay trước mũi xe của anh. Thiên hạ xúm lại, chỉ trỏ, bàn tán, xuýt xoa. Hóa ra chiếc váy bị quấn vào bánh xe mà cô ta không biết. Anh thợ khóa bên đường chạy ra đỡ chiếc xe, mấy bà bán hoa quả giúp cô gỡ váy, đem túi xách, mũ mão của cô vào vỉa hè, anh cùng một người đi đường đỡ cô ta dậy. Cô bước đi khập khiễng, một vệt máu đang rỉ ra chỗ mắt cá chân. Thế là lại phải chạy đi  mua thuốc sát trùng, bông băng về ràng rịt vết đau. Xong xuôi mọi việc thì anh đã muộn giờ 15 phút. Cô gái ngồi lên xe với một vạt váy bị rách, quay sang anh. Tim anh đập như muốn vỡ ra khi nhìn thấy đôi mắt trong biếc của cô ta, đôi mắt của con búp bê bị vứt vào thùng rác sáng nay. Anh chờ đợi khuôn miệng xinh xắn của cô sẽ thốt lên mấy tiếng tôi biết khóc nhưng cô chỉ nói khẽ, cám ơn anh rất nhiều. Cô lại rẽ phải. Anh rẽ trái, chạy một quãng ngắn, lòng vẫn lơ lửng, phân vân, rồi đột ngột quay đầu xe, vừa khi ngọn đèn vàng phụt tắt. Cô gái lúc ẩn lúc hiện rồi mất hút trong đám đông đầu đội mũ bảo hiểm, mặt đeo khẩu trang, dính chặt vào nhau thành một khối, xô dạt trước mắt anh. Anh thở dài, lắc lắc đầu, cố thoát ra khỏi trạng thái mê mụ. Thoạt tiên, anh nghĩ mình quay đầu xe vì muốn theo sau cô váy đỏ nhưng rồi chỉ mấy giây sau anh lại nghĩ đó không phải là nguyên cớ. Dù vậy, anh không thể tự cắt nghĩa hành động lạ lùng của mình. Anh muốn trêu chọc gã trưởng phòng chi ly từng giây từng phút với nhân viên hay anh không muốn gặp bà thủ quỹ mặt choắt cheo suốt ngày than thở, anh không thích nhìn cái cổng sắt nặng nề của sở làm, không muốn ngồi tám tiếng trong căn phòng nhỏ lạnh lẽo… hay chỉ là bỗng nhiên  muốn rẽ theo một lối khác. Thôi, kệ, tới đâu thì tới, anh nói với mình.

Anh chạy xe từ từ, mặc cho thiên hạ lướt qua mình, vượt lên mình. Khoảng gần trưa thì anh ra khỏi những con phố. Anh nhìn thấy một dòng sông. Sông nhỏ, nước trong, bên bờ có những bụi mua nở hoa tím và những dây lồng đèn bò trên mặt cỏ, lúc lỉu những chùm đèn màu xanh non. Như người ngủ chưa đẫy giấc, anh ngồi tựa vào gốc muỗm dại, đầu óc lơ mơ, có cảm giác muốn đổ vật xuống để được ngủ thêm giấc nữa. Anh chỉ thực sự tỉnh táo khi nghe thấy tiếng động ngay sau lưng mình. Thì ra là một con kỳ nhông, không hiểu vì cớ gì, vừa rơi bịch từ trên cây xuống. Nó giương đôi mắt lồi, lấc láo nhìn quanh, đầy vẻ cảnh giác. Anh vừa giơ tay lên nó đã nhanh như cắt, lủi vào đám lá vàng úa, chỉ thò ra một mẩu đuôi nhỏ xíu. Anh nhỏm người, lấy chiếc que nhỏ xới tung chỗ lá thì nó chạy vụt vào một lùm cây, anh chạy qua lùm cây thì nó chạy tới một lùm cây khác. Cứ như thế, cuộc rượt đuổi khiến anh vã mồ hôi, chân tay mỏi nhừ mà con rắn mối thì đã chạy thoát thân, không còn dấu vết. Anh nói to, tao thua, rồi đứng bật dậy, nhận ra mình đã cách gốc muỗm một đoạn khá xa. Anh lững thững quay lại, đưa mắt nhìn khắp quãng sông và trông thấy gần như đối diện với mình, có một người đang ngồi dưới bóng mát của khóm tre lớn, rậm rịt. Bằng vào dáng ngồi hơi khom khom, hai tay đưa về phía trước, anh đoán người ấy đang câu cá. Người ấy ngồi im phắc giống hệt ông lão trong bức  Điếu ngư vàng ố của ông nội anh, treo trên bức tường gần chỗ bàn nước. Ông nội bảo, đó là bản gốc, được truyền từ đời này sang đời khác như một vật gia bảo. Mặc dù có tuổi thơ ở thôn quê, anh chưa khi nào cùng chúng bạn đi câu. Anh không đủ kiên nhẫn chờ đợi những chú cá dại dột cắn phải lưỡi câu của mình. Với anh, đó là một công việc quá buồn tẻ, dù anh khâm phục sự kiên tâm của họ. Người kia có vẻ đã ngồi ở đó từ lâu lắm. Có khi ngồi cả đời rồi cũng nên. Anh bật cười vì câu đùa của chính mình và đột nhiên, muốn phá tan sự tĩnh lặng kỳ lạ của nơi này. Anh đưa hai tay làm loa “hú…hú” mấy lần nhưng người ấy vẫn không ngẩng nhìn lên. Bực mình, anh đứng bật dậy, la to, ươ, ươ, ươ mà cũng chẳng thấy người kia nhúc nhích. Anh rời chỗ, tìm đường đến sát mép nước, vừa lúc nhìn thấy người kia giật cần và một con cá trắng lấp lóa vùng vẫy giữa khoảng không. Người kia lần gỡ con cá khỏi lưỡi câu rồi đứng dậy, dùng cả hai tay thảy con cá vào dòng nước. Anh bật kêu thật to vì quá ngạc nhiên, anh gì ơi, ông gì ơi..ơi. Người kia nhìn anh, đưa bàn tay lên ngang mặt, nửa như che nắng, nửa như chào. Anh chỉ chỉ tay về phía bên kia sông. Người ấy hiểu rằng anh muốn sang sông nên chỉ cho anh con thuyền nhỏ đang cắm sào dưới bến nước. Anh lắc đầu, hươ tay, tỏ ý không biết chèo thuyền. Người kia cười, lẳng lặng thu dọn đồ nghề rối nhảy ùm xuống sông, bơi về phía anh. Anh nhìn thấy trước mặt mình một ông già khoảng ngoài bảy mươi với chòm râu và mái tóc bạc trắng, ướt đẫm nước. Anh nói, cháu phá hỏng buổi đi câu của bác rồi. Ông già cười, cũng đến lúc phải về. Cậu đi đâu mà lạc đến đây vậy. Rồi không đợi anh trả lời, ông lại bảo, đứng đây mà không tắm ùm một cái là uổng phí đấy. Nghe anh bảo không biết bơi, ông lắc đầu, dân thành thị các anh rõ thật là. Anh đỏ mặt, cúi xuống vốc nước rửa tay chân, mặt mũi, có cảm giác nhẹ nhàng, thanh sạch kỳ lạ. Thấy anh cứ đưa tay xoa xoa hai bên má, ông già bảo, cứ tắm rửa ở đây là da dẻ sạch sẽ, mịn màng, chẳng cần xà phòng thơm, chẳng cần sữa tắm với kem dưỡng da gì gì họ cứ nói ra rả trên ti vi ấy. Anh hỏi ông già, bác đi câu sao về tay không vậy. Ông già cười, cậu nhìn thấy tôi thả cá hử. Tôi sống một mình, ăn toàn rau đậu. Lúc buồn thì ra đó ngồi cho khuây khỏa thôi. Cậu có rỗi thì ghé về nhà tôi uống chén nước. Anh theo ông cụ. Dọc đường, gặp lũ trẻ ở trần bá vai bá cổ kéo ra sông, nói cười, trêu chọc nhau ầm ĩ. Chúng chào ông già, ông Tư đi câu /Mà không có cá/ là lá la la… Hóa ra chúng đều biết điều bí mật của ông già.

            Nhà ông cụ nằm sâu trong khu vườn rộng. Nhà nhỏ, đơn sơ nhưng gọn gàng, sạch sẽ. Ông già mang ấm tích ra hiên, đặt mọi thứ dưới nền đất. Anh đứng nhìn quanh, như cố ý tìm bóng dáng của ai đó. Ông già đến sau lưng anh, thực ra thì các con, các cháu tôi cũng ở quanh đây. Nói một mình là vì bà nhà tôi bỏ tôi mà đi đã ngót mươi năm nay rồi.  Giữa chốn đông mà ta vẫn một mình đấy cậu. Anh giật mình quay lại, bắt gặp ánh nhìn hiền hậu của ông. Ông rót nước ra hai chiếc ly thủy tinh cũ, cậu có điều chi bất ưng ư. Anh đáp, dạ cũng không hẳn. Tự nhiên thấy bứt rứt, buồn bực thôi. Ông cụ uống hết chén trà, khà một tiếng như kiểu người ta uống rượu, rồi, tôi hiểu rồi, ai chẳng có một ngày bứt rứt, khó chịu hả cậu. Những ai không có lúc như vậy mới đáng ngại. Tôi không ưa những kẻ lúc nào cũng phởn phơ, mặt mũi vênh vác, nói cười hể hả, nhìn người bằng nửa con mắt. Tôi đoán là đêm qua cậu nằm mơ thấy điềm gở hay sáng sớm đã gặp phải chuyện đau lòng. Anh dạ khẽ, không biết làm cách nào để kể cho ông câu chuyên con búp bê biết khóc, biết kêu bla, bla, bla bị ném vào thùng rác. Ông già khoát tay, cậu tin tôi đi, ngày mai, ngày kia, mọi việc sẽ lại đâu vào đó thôi. Những bận bịu hàng ngày sẽ lấp kín nỗi băn khoăn, buồn bực ngày hôm nay. Bây giờ cậu ăn với tôi bữa cơm rau rồi lên đường về nhà với vợ con, với bạn bè với công việc. Anh thấy quyến luyến ông già.Ý nghĩ sẽ không còn có dịp gặp lại ông khiến anh do dự một chút rồi nhận lời ở lại. Ông già vui vẻ, trong lúc tôi thổi cơm, cậu ra giếng tắm ù một cái đi. Cái giếng đào từ thời ông nội tôi đấy. Gàu tôi móc chỗ nhánh mít. Gàu nhựa, nhẹ lắm.

            Anh vừa rũ tóc vừa kêu to, mát quá bác ạ. Sống thế này thảo nào bác còn khỏe như thanh niên vậy. Ông già cười, còn cậu thì như một ông cụ. Thành phố gặm mòn mấy người. Ô tô, nhà lầu, ti vi, tủ lạnh, máy tính, máy giặt… nhức hết cả đầu. Rồi ông lẩm bẩm, lại còn không biết bơi, không biết chèo thuyền, không biết tắm sông, rõ chán.
            Trên chiếc mâm nhựa chỉ có một dĩa rau tập tàng, một chén nước tương, một chén lạc rang. Anh xuýt xoa, cơm ngon quá bác ạ. Hình như cả ngày nay cháu chưa ăn chút gì. Ông già bảo, ấy đấy, bao nhiêu ngày ăn thịt, ăn cá cũng nên có bữa cơm rau, bao nhiêu ngày no cũng phải biết có ngày đói, bao nhiêu lúc vui cũng phải có lúc buồn. Ông đưa một cộng rau màu nâu đỏ có những đốm hoa vàng nho nhỏ lên, cậu có biết thứ rau này. Anh đáp, rau sam phải không ạ. Ông cười lớn, cũng còn khá. Là vị thuốc giải nhiệt tuyệt vời đấy. Rau củ ta ăn toàn là vị thuốc mà ta không hiểu đó thôi. Có biết bao thứ ta có mà  không biết, ta thụ hưởng mà chẳng hàm ân trời đất. Cậu có làm tí cay không. Anh từ chối, dạ thôi, cháu còn phải chạy xe. Ông già đặt đũa xuống mâm, vẻ tư lự, cậu là người đa cảm, dễ bị tổn thương, cái người khác chỉ thấy như vết sướt ngoài da, cậu đã đau quặn gan ruột rồi. Người như vậy thì khổ gấp mười lần người khác. Nhưng cậu được đền bù bởi tình yêu thương của mọi người. Lẽ thường mà. Anh không đáp, lòng rưng rưng muốn khóc. Anh đưa tay quẹt ngang mắt, đứng dậy, bác để cháu dọn mâm. Ông già giữ tay anh, đó là việc của tôi, người ta vẫn bảo, chuyện thường ngày ở huyện ấy mà. Chả biết gốc gác từ đâu nhưng nghe hoài rồi quen. Cậu sửa soạn mà về đi.

            Khi anh rời căn nhà nhỏ, trời đã nhá nhem tối. Đi một quãng, anh ngoảnh lại. Dưới ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn đường, căn nhà, khu vườn đã chìm vào bóng tối.  Anh cảm thấy lòng bồn chồn như thể vừa để lạc mất một cái gì thân thuộc, quý báu. Anh không biết liệu dòng sông, khu làng, căn nhà nhỏ và, cả ông già nữa, có thật hiện hữu hay chỉ là một giấc chiêm bao ngắn ngủi khác của anh trong cái ngày thật dài này.
    Anh chạy xe thật nhanh, mong có một dấu hiệu nào đó khả dĩ xác nhận rằng mình đang tỉnh táo. Quãng đường đất dài hơn anh nghĩ. Dù vậy, cuối cùng, phố phường cũng hiện ra, sáng trưng đèn đuốc và tấp nập người xe. Chỗ giáp ranh giữa hai vùng đất có một quán nước nhỏ vắng khách. Anh vào quán, gọi một ly ca-phe đen. Cô hàng nước hỏi anh, chú có sao không. Trông như chú bị cảm nắng. Anh đưa tay xóc lại cổ áo, vuốt nhẹ mái tóc, cố nở một nụ cười, giọng nhã nhặn, tôi không sao, chỉ mệt một chút thôi ạ. Cô ta đưa ly nước, dặn dò, chú uống từ từ thôi, kẻo mà sặc. Sặc nước cũng nguy hại lắm. Anh ngẩng nhìn cô, bất ngờ khi thấy cô chủ quán còn khá trẻ. Cô có khuôn mặt tròn hiền hậu và một ánh nhìn trong trẻo. Anh nhận ra ngày hôm nay anh đã để tâm nhiều đến những đôi mắt của mọi người quanh mình. Anh vừa uống chút cà phê loãng nhạt vừa đưa mắt quanh gian nhà lợp tôn mỏng mảnh, cái tủ thuốc có dăm bảy loại thuốc rẻ tiền như Hero, Bastos, Era, Đà Lạt, Hoa mai…rồi những chai nước giải khát, mấy chiếc bàn nhựa màu nâu đen trầy sướt. Cô chủ quán đoán được sự e ngại của anh, giải thích nhỏ nhẹ, chỗ này là đất nằm giữa làng và phố, cũng là chỗ ông A bà B đang tranh chấp. Thấy họ còn bỏ hoang, còn lo tranh tụng, cãi cọ ở đâu đó, em dựng liều cái quán lên để kiếm chút ít nuôi con, được ngày nào hay ngày đó. Lắm khi em thấy mọi thứ cứ rối tung rối mù lên, không sao tìm ra rường mối, rồi nhiều lúc lại thấy mọi điều sao mà đơn giản, kiếm được vài chục đong gạo, mua rau đã là niềm vui rồi. Đêm đêm thắp hương cho bố cháu, em chỉ xin ngày mai lại được như ngày hôm nay. Giọng cô buồn buồn, đều đều, như chỉ nói một mình. Anh ngồi im, chưa biết phải trò chuyện với cô ra sao thì thấy một tốp 5, 6 cô cậu trẻ tuổi ùa vào quán. Có vẻ là khách quen vì trông họ rất tự nhiên, thoải mái. Một cô kêu lên, khát cháy cổ, chị ơi, cho tụi em uống nước. Anh lẳng lặng rời quán.

            Phố đông lạ thường. Hình như thiên hạ đã rời bỏ những căn phòng của mình để đổ hết ra đường. Tiếng xe, tiếng người, bụi khói, mùi xăng xe đã tạo nên một thế giới xô bồ, ồn ã, ngột ngạt. Anh nhích từng chút một giữa đám đông, mắt dán vào những tấm lưng đủ màu sắc, đủ kích cỡ. Một lúc nào đó, ngay trước ngọn đèn đường đỏ quạch, anh nghe thấy tiếng khóc thất thanh của một đứa bé gái, bố ơi, bố ơi…Tim anh chợt nhói lên. Biết đâu vợ con anh chẳng ở đâu đó trong đám người đang ngạt thở vì chen lấn, xô đẩy này. Anh rẽ bừa vào con hẻm bên tay trái, ngay sát chỗ đứng của anh. Anh chạy xe trong con hẻm nhỏ chen chúc hàng quán, nhà cửa, thuận đâu rẽ đó, không sao có thể lựa chọn, tính toán điều gì.
            Khi bất ngờ nhìn thấy khoảng đất trống chỗ con đường rẽ về nhà, anh bật kêu lên, lạy Trời Phật rồi cả người, cả xe ngã vật xuống vệ đường. Hết xăng. Anh ngước nhìn khu chung cư của mình, một khối vuông với những ô cửa nhấp nháy sáng, giống như một hành tinh lạ vừa sa xuống mặt đất chật chội này. Hình như chưa bao giờ anh nhìn toàn khối nhà của mình vì lúc nào cũng vội vàng, sấp ngửa, lúc nào cũng cắm cúi ra đi, cắm cúi trở về. Anh nhướn mắt tìm ô cửa nhà mình trên tầng 5 nhưng chỉ nhìn thấy một mảng tối. Anh đứng bật dậy, lập cập dắt xe về phía nhà.
            Tiếng chào của bà cụ  làm anh giật mình. Bà ngồi trên chiếc ghế buổi sáng anh đặt con búp bê, vẫn mặc chiếc áo tím có đăng ten trắng, vẫn đang đưa tay xoa lên hai đầu gối bị đau nhức. Anh dừng lại, khuya rồi, bà lên nhà kẻo lạnh. Bà cụ xuýt xoa, lầu bầu  điều gì đó mà anh nghe không rõ.
            Anh chạy ba bậc một lên cầu thang, chân lạnh ngắt, lòng thấp thỏm. Anh vừa đưa tay định gõ cửa thì cánh cửa bật mở, vợ anh bế đứa con gái nhỏ, đổ sập vào người anh rồi bật khóc nức nở. Anh vỗ vỗ vào vai vợ, không sao, không có gì, chỉ là một chút trục trặc thôi. Đứa bé rời vai mẹ, thức dậy. Nó đưa bàn tay nhỏ xíu thơm tho vòng qua cổ anh, miệng thì thầm, bố ơi, bố ơi, rồi lại ngủ thiếp đi trên vai bố.

            Quả như lời ông cụ, những bận bịu, lo toan thường nhật đã lấp kín cái lỗ hổng của buổi sáng ấy. Vợ anh không căn vặn  lý do anh về muộn, trưởng phòng  không hạch hỏi vì sao anh không đến nơi làm, vì sao anh chậm báo cáo công việc. Chiếc ghế anh đặt con bup bê không hiểu vì lẽ gì, đã đem đi nơi khác. Bà cụ tầng 2 đã về quê cho rộng rãi, dễ thở. Mọi người, mọi việc đều như muốn giúp anh quên đi một điều không vui. Bản thân anh cũng muốn được yên ổn. Nhưng cái mối hàn quanh lỗ hổng vẫn hiển hiện, vẫn cộm lên, vẫn chưa thể liền lạc. Mỗi buổi sáng, khi cầm bịch rác ném vào thùng anh lại thấy tim đập loạn xạ, nhìn ngó xung quanh, tìm kiếm xem liệu có ai vừa ném một con búp bê xinh xắn vào thùng rác hay không. Đêm, đôi khi anh trở dậy, nghe thấy tiếng kêu, tôi biết khóc…Những lần dắt con gái đi chơi, anh đứng sững người trước những tủ kính bày bán búp bê và khăng khăng không cho vợ mua chúng cho con gái. Vợ anh không hiểu, tại sao không. Anh đáp, đến lúc chán lại vứt đi à. Vợ anh nhướn mày, thì sao, chỉ là một đồ vật thôi mà. Anh cãi, mặt đỏ lên, đó không phải là một đồ vật. Vợ anh nhún vai, lẳng lặng dắt con đi chỗ khác.

            Mọi sự chỉ trở lại bình thường khi chủ khu đất trống mua lại chung cư để mở rộng diện tích cho một dự án nào đó. Nhà anh được đền bù một căn hộ trong chung cư cao cấp, có thang máy. Ở đây, vợ anh có thể ném rác thẳng vào một đường ống dẫn xuống tầng hầm, rơi vào một cái thùng rác mà anh không nhìn thấy.

                                                                                      SG 6/2012
                                                                                ( Những ngày Euro )
                                                                                             Ý Nhi

            * Một câu thơ của Vũ Thành Sơn.