Saturday, November 26, 2011



MỘT  VỆT  SAO  MỜ

Chân Phương



                                                      Chan Phuong. by Nguyen Trong Khoi

    Đầu thập niên 90 lúc mới dọn về ở Cambridge (Boston) tôi rất siêng lui tới thư viện Harvard-Yenching để sưu tầm thơ văn miền Nam trước 1975 trong mớ báo chí Sàigòn cũ. Tình cờ một hôm khi lục lọi mấy chồng bán nguyệt san VĂN, giữa vô số những câu vần điệu phần nhiều là lục bát tôi khám phá một bài thơ tự do của Nh. Tay Ngàn đăng trong VĂN số 25 (15-2-1965). Vừa bàng hoàng vừa thú vị tôi chép ngay vào sổ tay bài  Đơn khúc của Liễu với tâm trạng của kẻ đang khát bỗng được uống từng ngụm suối mát. Đó cũng là lần đầu tôi hạnh ngộ với sáng tác của thi sĩ này. Cái bút hiệu nửa mộc mạc nửa bí ẩn kia trở thành dấu hỏi ám ảnh tôi. Nh. Tay Ngàn, người là ai? Đang lưu lạc góc trời nào? Còn sống hay đã mất?
    Tôi dò hỏi trong đám bạn hữu văn nghệ và ít lâu sau có người gửi cho tờ Quê Mẹ, (Xuân Canh Ngọ 1990), trong đó có nhiều trang văn xuôi Nh. Tay Ngàn và một tùy bút-tự sự của Phạm Công Thiện thuật lại cuộc gặp gỡ của họ ở Paris “trong thời gian cả hai đều nghèo đói và chỉ biết sống hết mình với thơ văn nghệ thuật; cả hai thường lang thang suốt đêm trên những đường phố Paris, lúc nào có chút ít tiền thì la cà ngày đêm trong những quán café ở Montparnasse hoặc ở Montmartre. Cả hai đều say sưa viết, mộng và mơ bất tận. … Có lúc dắt nhau ra bờ sông Seine, thòng mấy chai rượu đỏ xuống nước sông, uống rượu say lướt khướt, ngâm thơ Lý Bạch và Nguyễn Du, đọc thơ Apollinaire ngay nơi chỗ ở xưa của thi nhân, ngó những cụm mây trắng ngập ngừng trên tháp chuông nhà nguyện Saint Germain-des-Prés, ngồi quán café ở Montparnasse vui cười ngó nhìn Jean-Paul Sartre dẫn cô đầm trẻ tóc vàng bước qua vỉa hè. …”

    Rất có thể  Đơn khúc của Liễu cũng như một số ít bài thơ khác đăng trên báo VĂN vài năm sau đó đã được tác giả chúng sáng tác trong thời gian nói trên vì chúng mang khá đậm không khí của thơ hiện đại Paris, đặc biệt là chất trữ tình bình dân Prévert và âm vang thời gian siêu hình Apollinaire như mấy câu sau: 
                      Ba giờ trưa    một khúc nhạc sầu
                      Un jour sans toi
                     
                      Liễu ơi Liễu
                      Un jour sans toi
                      tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
                      gạch ngói hoang tàn hồn anh     
                      Đơn khúc của Liễu   
    Dù chưa tìm ra tài liệu hay nhân chứng nào để hỏi cho biết ngày sinh tháng đẻ tôi đoán rằng thi sĩ lúc ấy khoảng 23-25 tuổi, cái thuở thanh xuân tràn trề hoài bảo của chàng sinh viên VN say mê văn nghệ lại được đặt chân lên thánh địa của thơ văn quốc tế.  Bị ma lực của thủ đô ánh sáng réo mời, tâm hồn tài hoa nhưng non bản lĩnh ấy đã hóa làm thiêu thân…”Nh. Tay Ngàn bỏ học kỹ sư không gian ở Paris, sống nghèo đói cả chục năm hoang liêu, suốt ngày chỉ làm thơ và chẳng bận tâm xuất bản. Rất ít nói và khiêm tốn, không bao giờ tự nhận là thi sĩ, dù đã làm cả ngàn bài thơ tuyệt diệu. …Nh. Tay Ngàn… dám sống cho tới nơi trọn cả nỗi đời nghệ sĩ hiu quạnh, từ chối đời sống khoa cử trường ốc, …,vợ con, việc làm, nhà cửa ấm êm, cô độc đói rét lao cả thân mệnh mình vào thơ, và chỉ biết có thơ và thơ mà thôi.” Người Pháp có hai chữ POÈTE MAUDIT ngắn gọn để tôn vinh những kẻ chấp nhận mọi nguyền rủa của đời đổi lấy sự thủy chung với Nàng Thơ. Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng … còn có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng  … Không hiểu những bóng hình phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đã thấm vào máu thịt nhà thơ?



                                                 Ao Ba Om. Tra Vinh - Indocycling.com

             Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
             Tôi đi xa mãi tôi rồi
             Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
             Tan mù mù trên miệt hải ngạn
            
             Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng
             của tôi và Liên hôm nay
            
             Một mùa thu trước Liên xa
             Không còn gì nhớ lại nữa đâu
             Những hàng sao im nguyên ngày ấy
             của con đường Trà Vinh sớm hôm

             Không còn gì ru nhớ làm chi
           
             Mười hai năm thành điệu gió mùa
             Thổi lưu lạc mỗi hôm mù mắt
             Trên hình bóng Liên xa và xa
             Như hiện thân tôi trôi và trôi
             Mãi mãi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh    
                                                            Nỗi Liên đen tối vô cùng  
    Cũng nhờ bài viết nói trên của PCT tôi biết được hung tin trễ tràng: “Nh. Tay Ngàn đã chết từ lâu,…chết lúc mới ngoài ba mươi tuổi, tự tử. Người ta tung cửa phòng anh và biết rằng anh đã chết bốn năm ngày. Ông bạn thi sĩ ở G. đã khổ công lắm mới tìm được cả ngàn trang văn thơ của Nh. Tay Ngàn. Cả một sự nghiệp thi văn vĩ đại hãy còn quạnh hiu đâu đó mà chưa có ai hay biết..”
    Vài đoạn trích trong bài giới thiệu sơ lược này kèm theo mấy bài thơ dưới đây dĩ nhiên không thể đại diện cho sự nghiệp sáng tác của người quá cố . Hi vọng giới yêu thơ VN sẽ hợp tác để khôi phục lại tác phẩm, đặc biệt là thơ, của Nh. Tay Ngàn; đồng thời bổ túc cho một chương văn học sử VN hiện đại do những nhà thơ Việt từng sinh sống ở Pháp như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Hồng Châu, Nh. Tay Ngàn…tạo dựng nên và đang đứng trước nguy cơ bị phủ nhận hay quên lãng. 

ĐƠN  KHÚC  CỦA  LIỄU
ba giờ trưa   một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió
điếu thuốc đốt lên hình bóng
và chợt tắt bơ vơ
kỹ niệm xuống đêm
ở chót vót của tuyệt vọng
anh im lìm ngắm hai tay không
Un jour sans toi
người thủy thủ già rời bỏ biển khơi
chiếc tàu đã chìm
căn phòng nhuộm đầy bóng tối
mền gối bắt đầu rã mục
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
gạch ngói hoang tàn hồn anh
cùng tiếc thương mọc lan trên đó
Un jour sans toi
một ngày người thủy thủ già
vô vọng chuyến ra khơi
Liễu ơi Liễu 

BÀN  TAY

trên cao xa kia nhớ nhung nàng chỉ còn mảng trời tím lạnh.

buổi chiều tắt dần tắt dần tiếng chuông,
cây lá sẩm.
nàng vuốt lấy mặt nàng,
thấy ngón tay nàng ướt đẫm.
những đớn đau lớn theo đời nàng
nàng đếm mãi trên bàn tay
(ôi những ngón tay yếu ớt như côn trùng đơn chiếc)
còn thanh xuân nàng ư?
nàng hỏi sao mùa đông loài chim ủ rũ
ôi những chiều những chiều kéo nàng vào bóng tối
những xót đau khó hiểu của hồn chàng,
chàng đặt giữa vũng tay nàng,
chàng bỏ chàng đi;
rồi mặc tình cho con lốc bi thương cháy rực.

nàng vuốt lên thân thể nàng;
ôi bàn tay em đâu là cánh tay anh.
nàng hôn lấy hôn lấy từng chiếc móng.
ở cuối đêm khuôn mặt chàng xanh.

CHIM 

một sáng thức dậy nàng biết nàng không còn tiếng hót
mặt trời nàng nhìn thẳng
cũng hóa đen

rồi mùa rét mang về nhớ nhung
lòng nàng mướt xanh
vết thương tự đấy mưng lên
nàng muốn bay vào miền ấm áp của lòng chàng
nhưng cánh nàng đã mỏi
và bắt đầu nàng gọi
rừng chập chùng
căn lầu vườn cây bốc cháy
đêm ơi đêm anh ơi anh 


CHÚ  THÍCH
Giai phẩm Quê Mẹ ( Xuân Canh Ngọ 1990) với tùy bút của Phạm Công Thiện, Tuyết vẫn bay đêm cuối năm, 83-87; và truyện của Nh. Tay Ngàn, Ngồi như nỗi gió reo cuồng,88-94, là tư liệu cung cấp nhiều thông tin quí về đoạn đời ở Pháp của nhà thơ. Bài trường ca Nỗi Liên đen tối vô cùng trong Tạp chí Thơ 13 (Thu 1998), 17-23 bổ túc thêm vài chi tiết tiểu sử về giai đoạn thiếu thời và mối tình đầu (?)  của Nh. Tay Ngàn ở Trà Vinh. Cảm ơn Trần Hoài Thư & Phạm văn Nhàn đã sưu tập hai bài thơ  Bàn Tay, và Chim, trong  bộ tài liệu Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, Thư Ấn Quán xb, 2006. (Bạn đọc nào có thêm tư liệu, thông tin gì về Nh. Tay Ngàn xin vui lòng liên lạc với tôi.)  

CP
(Nguon: tu Google)






Tuesday, November 22, 2011


thơ trần văn sơn

Mưa trên những chùm chuỗi ngọc


Trời đang nắng chợt mưa rơi nặng hạt
Mưa mịt mù mưa dai dẳng ngày đêm
Vườn chuỗi ngọc em mưa bay xơ xác
Bầy lá phong trải thảm úa vàng sân

Em ngửa mặt hứng giọt mưa vần vũ
Giọt lệ sầu hiu hắt giấc mơ tan
Quê ngàn dặm nghẹn ngào sương tuyết phủ
Hồn cỏ cây lạ lẫm dấu chân quen

Em đội mưa nâng niu từng lá cỏ
Lạnh đôi tay ấm áp trái tim đời
Mưa ôm ấp quỳng hoa vừa nở rộ
Chuỗi ngọc xanh lấp lánh cuộc tình người

Mưa tí tách tiếng dương cầm réo rắt
Hòa ngũ âm khúc dạ cổ hoài lang
Người xưa đến mang hồn mưa u uất
Nhịp tử sinh cùng vũ trụ xoay vần

Em xuống phố quẩn quanh con phố nhỏ
Bụi mưa bay mơn trớn tóc em mềm
Mưa tầm tã che vầng trăng cố xứ
Trăng phương tây toả sáng xóa màn đêm

Mưa lang thang trong công viên cuồng loạn
Gió thét gào cây trốc gốc chênh vênh
Hồn tượng đá mang mang thiên cổ hận
Vọng cố nhân hề phương đông buồn tênh

Em đóng cửa xa đường mưa ngõ trúc
Bên án thư nghĩ chuyện một dòng sông
Lũ bàn ghế có em thêm hạnh phúc
Ngôi nhà có em sưởi ấm tình nồng

Đường trúc thư trang. 2011

Mưa  độc dược 


                                                   Mưa Tím. Tranh Lương Trường Thọ

Quỉ ám hồn đau sầu vận nước
Nâng ly rượu đắng xót xa đời
Mưa chiều độc dược ôm đầu khóc
Ghế trống chờ ai xé ruột người

TVS

Requiem
Anna Akhmatova
Nguyễn Ước dịch


                                                        Anna Akhmatova by Olga- Della-Vos  
  
   Ðó là nhan đề tiếng Anh (giữ nguyên gốc La-tin) của thi phẩm Rekviem, có nghĩa là lễ cầu hồn hoặc là nhạc cầu hồn, để nguyện cho linh hồn người quá vãng được siêu thoát. Requiem là một tập hợp gồm 15 bài thơ ngắn viết vào những thời điểm khác nhau, rải rác từ năm 1935 tới 1940, một đoạn văn xuôi viết năm 1957, và bốn câu đưa dẫn viết năm 1961. Thoạt nhìn, đây là một tác phẩm kết hợp giữa sử thi và thơ trữ tình; nhìn gần hơn, Requiem là một ai ca tưởng niệm và than khóc, trong đó khổ đau đã vượt mức giới hạn của nó khiến con người hóa đá tới độ không còn bất cứ cái gì có thể làm y sợ hãi. Với nội dung ấy, Requiem hội đủ cả hai đỉnh điểm đau thương và hùng tráng của một bi kịch.
    Trong cuộc đại khủng bố của Stalin, có một số lượng nạn nhân đông gấp bội nam giới. Họ bao gồm những người mẹ, người vợ, người tình và các nữ thân nhân. Cuộc hành quyết người chồng cũ và tình cảnh tù ngục của con trai đẩy Akhmatova vào xếp chung hàng với những người nữ khốn khổ ấy. Qua con mắt một người mẹ chứng kiến cảnh con trai bị bắt đi mất -theo lối diễn tả của Solzhenitsyn trong Quần đảo Gulag là “thình lình bị đẩy xuống rồi trôi tuốt tuồn tuột trong ống cống đen ngòm” -và kế đó, bà mỏi mòn suốt 17 tháng trời thống khổ, đứng xếp hàng ngóng cổ và bất lực ngó bức vách của nhà tù Kresty, ngay giữa Leningrad, với hi vọng được thăm nuôi hoặc gặp mặt, hay dù chỉ một lời nhắn hoặc thoáng thấy bóng dáng của người thân trước khi y không thể tránh bản án lên đài xử giảo hay đi đày Siberia.
   Ðể có thể diễn tả tận cùng các cảm xúc, Akhmatova hóa thân vào nhiều vai. Khi ngôi thứ nhất, khi ngôi thứ hai hay thứ ba. Khi nói với con trai, nói với những người tình cờ đồng cảnh ngộ và khi nói với chính mình, thậm chí nói với thần chết và với người chưa sống. Nhân vật trung tâm của Requiem lầm lủi bước khập khểnh lên các bậc thang khổ ải khác nhau. Từ đau đớn câm lặng tới dần dà mất niềm tin. Từ giọt nước mắt khô tới lệ trào đẫm má. Từ dùng lý trí kềm chế tới nức nở kêu gào. Và quyết tâm sắt thép khi khổ nạn đã vượt ra ngoài trí tưởng của bản thân và dân tộc. Sau cùng, những nốt nhạc và lời ca chất ngất của Requiem lắng xuống với âm thanh xa đưa của chim câu và hình ảnh cánh buồm êm ái xuôi dòng trường giang, như một lời chúc an tĩnh để lại cuả linh hồn vừa được siêu thoát.
   Từ cảm xúc hiện thực lên tới bí nhiệm tôn giáo, từ nhà tù bôn-sê-vich lên tới hoạt cảnh Núi Sọ trong Phúc âm Kitô giáo, Akhmatova góp phần xác nhận rằng về mặt tâm linh, đức tin tôn giáo là nơi an trụ và nguồn dũng khí cho con tim khi phải đương cự cái ác. Requiem trở thành tiếng nói của quần chúng bị đọa đày khi tác giả của nó phổ quát hóa nỗi đau riêng tư cùng sự mất mát bằng hữu, những trí thức văn nhân đồng trang lứa bị hành quyết, khổ sai hay phải lưu vong, tới cả một dân tộc lâm nạn trong máu và nước mắt. Qua thơ, bà thăm dò vai trò của thi sĩ như người làm chứng cho sự thật và thơ như một ngôn ngữ của thương khó và cứu rỗi, vũ khí của đề kháng và kết đoàn. Từ đầu tới cuối Requiem thấm thía cả ý lẫn lời vinh danh tình thương và tưởng niệm, như một sức mạnh vượt lên trên cái ác và tạo sức lực cho một tình thế bất lực.
    Có lẽ nhờ soi chiếu được “nước Nga vô tội” và chất ngất tình tự, dồi dào thi tính nên Requiem được bí mật bảo lưu suốt mấy chục năm giữa Akhmatova và vài người bạn can trường, tín cẩn, vì chưa biết điều khủng khiếp nào sẽ xảy tới cho người truyền tụng các tác phẩm văn học đang bị một nhà nước sắt máu tìm cách hủy diệt, nhất là đối với loại thơ như Requiem. Lối sáng tác bằng các đoạn ngắn truyền khẩu theo kiểu Requiem cũng tiêu biểu cho cách thức được người dân Nga dùng để hiệp thông, nâng đỡ và hỗ trợ nhau trong những năm sống dưới chế độ Stalin. Nhờ thế, trong bí mật, chữ nghĩa được bọc rất kín, chẳng để lại dấu vết nào để guồng máy toàn trị có thể dùng làm nguyên cớ trấn áp khi trắng trợn man rợ khi độc hiểm khôn lường.
    Năm 1963, Requiem được xuất bản bởi Hiệp hội Nhà văn Lưu vong Nga (Society of Russian Emigré Writers) từ một bản lọt được qua phương Tây. Nhưng mãi tới 24 năm sau, năm 1987, nó mới được xuất bản đầy đủ tại Nga. Bản dịch dưới đây được làm thành qua đối chiếu và phối hợp từ bốn bản dịch tiếng Anh khác nhau (xem phần Nguồn). Trong khi chờ ngày có được một bản dịch Requiem từ nguyên văn tiếng Nga, chúng tôi xin bạn đọc hãy vui lòng xem đây như một bản tạm dịch.


                    The monument to Anna Akhmatova in the village of Slobidska Shelekhivska

REQUIEM
Anna Akhmatova
Không dưới các vòm trời nước khác đỡ che,
Và không dưới cánh chim xứ lạ cứu chở,
Ở đây dân tộc tôi bị bỏ rơi,
Và tôi chung chia mọi điều bất hạnh
1961

THAY LỜI MỞ ÐẦU
   Trong những năm kinh hoàng thời khủng bố Yezhov[1], tôi trải qua mười bảy tháng xếp hàng bên ngoài nhà tù Leningrad[2]. Ngày nọ, có người “nhận ra” tôi. Một phụ nữ môi tím ngắt, đứng chung hàng ngay sau lưng tôi, và dĩ nhiên suốt đời mình, bà không bao giờ nghe nói tới tên tôi. Chợt như choàng tỉnh khỏi cơn lờ đờ, một trạng thái mất cảm giác chung của chúng tôi lúc ở đó -bà kề miệng sát tai tôi và thì thầm- như mọi người đều thì thầm lúc ở đó:
   - Bà có thể tả lại việc này không?
   Và tôi trả lời:
   - Vâng, tôi có thể.
   Ngay lúc đó, tựa như có một nụ cười lướt qua cái từng có lần là khuôn mặt của bà ấy.
1 tháng Tư 1957 Leningrad
LỜI ÐỀ TẶNG
Núi cúi đầu trước thống khổ này,
Sông lớn ngưng chảy.
Nhưng các cửa nhà giam vẫn im lìm chốt cứng,
Và đằng sau chúng, những “cái hang của người tù”
Thấp và tối, đầy bi thảm chết chóc.
Có ai đó vẫn cảm thấy ráng chiều thắm đỏ,
Có ai đó vẫn có thể nhận ra
Ngày với đêm, và ngọn gió hiu hiụ thổi cho ai.
Còn ở đây chúng tôi chỉ biết
Nơi nào cũng giống nơi này, chúng tôi chỉ nghe
Tiếng chìa khóa leng keng đáng ghét
Với bước chân nặng nề của các lính canh.
Thức dậy rất sớm như đi lễ nhà thờ,
Lê bước qua thủ đô hoang vu,
Ðể làm thành đám người chết dở.
Mặt trời thấp hơn mọi ngày, và dòng Neva mù sương hơn,
Còn hi vọng vẫn hát mãi ở chốn xa xôi.
Phán quyết đọc. Lập tức cơn lụt nước mắt,
Và rồi bốn bề hiu hắt.
Như thể trái tim bà đang đập bị rứt ra đau xé ruột, và vứt đi
Hoặc đẩy cho bà nằm sấp mặt trên con đường lát đá,
Nhưng bà vẫn gắng gượng bước đi, loạng choạng, một mình
Ở đâu hỡi những người bạn tình cờ của tôi,
Những tù nhân của hai năm hiểm ác,
Phép lạ nào các người thấy trong trong những cơn bão tuyết Siberia?
Ảo giác nào lung linh quanh vầng trăng?
Tôi đang gởi tới từng người lời chào vĩnh biệt. [3]



                       Tượng đài tưởng ni ệm Anna Akhmatova ở gần nhà tù Kresty (Saint Petersburg)
LỜI MỞ ÐẦU
Những năm tháng đó chỉ có kẻ chết mỉm cười
Mừng được an nghỉ,
Leningrad như khúc ruột thừa vô dụng
Ðong đưa giữa các nhà tù.
Cũng là thời các sân ga
Thành nơi nương náu của những người mất trí,
Xếp thành đội hình, đi dọc theo
Các đầu máy xe lửa rúc lên lanh lảnh
Bài ca vĩnh biệt cụt ngủn.
Các ngôi sao chết treo trên đầu chúng tôi,
Treo trên đầu nước Nga vô tội
Oằn mình dưới những đôi ủng nhuốm máu,
Và dưới bánh của đoàn xe tang đen[4].
1
Họ đến bắt con đi trong mù sương rạng sáng,
Mẹ lê theo sau, như đưa tang đứa con chết lúc lọt lòng.
Trong căn nhà tối tăm, lũ trẻ khóc
Ngọn nến leo lét, chiếu lên khung hình Ðức mẹ Sầu bi…
Màu giá băng của tượng thánh, trên môi con,
Mồ hôi lạnh chết chóc, trên lông mày con… Không thể nào quên!
Mẹ sẽ rón rén đi tới bức tường than khóc của chúng ta,
Và bò lết tới mấy ngọn tháp Kremlin[5]. [6]

2
Êm đềm chảy sông Don êm đềm,
Ánh sáng vàng lọt vào túp lều,
Trăng lưỡi liềm nghiêng mũ lệch,
Thấy qua cửa sổ chiếc bóng liệt giường,
Người đàn bà ốm đau quạnh quẽ.
Người đàn bà sóng soải trơ vơ.
Con đi tù, chồng về đất.
Ôi, hãy cầu nguyện cho tôi!

3
Không, không phải tôi, ai đó khác đang khổ đau.
Những gì đã xảy ra, tôi không còn chịu nổi.
Hãy trùm kín chúng bằng tấm vải liệm đen,
Và hãy lấy đi những chiếc đèn lồng.
Ðêm. [7] 

4
Nên cho mầy thấy, hỡi nàng tôn nữ một thời hay chọc ghẹo
Hết thảy bạn hữu của mầy, hỡi con vật cưng chiều,
Ðứa tội lỗi hồn nhiên của biệt điện Tsarskoye Selo[8].
Nếu chỉ một mình mầy có thể thấy trước,
Những gì cuộc đời sẽ làm cho mầy,
Rằng mầy sẽ đứng, bọc đồ trên tay,
Bên dưới khu Thánh giá[9], xếp hàng với ba trăm người.
Những giọt nước mắt nóng hổi và cay đắng của mầy,
Ðang nung chảy băng giá Tân Niên.
Ðằng kia, cây bạch dương của nhà tù đưa qua đưa lại
Không một tiếng kêu – và lúc này, đằng kia bao nhiêu
Người vô tội đang đánh mất cuộc đời. [10]

5
Suốt mười bảy tháng dài mẹ kêu khóc
Mẹ gọi con về nhà
Mẹ ném mình dưới chân các đao phủ, không chỉ một lần,
Vì con, con trai của mẹ, nỗi kinh hoàng của mẹ!
Mọi sự đã trở nên mãi mãi mù mờ,
Mẹ không còn phân biệt nổi
Ai thú vật, ai con người,
Và bao giờ tới lúc xử giảo.
Lúc này, chỉ còn các bông hoa đầy bụi,
Cùng tiếng loảng xoảng của lư hương vọng lại từ xa,
Không ở hẳn một nơi nào trên mặt nước đá
Có ngôi sao thật lớn
Ðang nhìn thẳng mắt mẹ,
Và hăm dọa mẹ với cái chết lơ lửng. [11]
6
Ngoài này, những tuần lễ sáng trời đang vụt qua nhanh.
Mẹ sẽ không biết điều gì xảy tới
Trong nhà tù bằng đá, con trai yêu của mẹ,
Những đêm trắng canh chừng con như thế nào,
Và chúng chằm chặp nhìn ra sao
Bằng con mắt chim ưng đỏ ửng,
Xuống cây thánh giá con treo trên cao
Và cái chết đang chầm chậm tới. [12]
7
Tuyên án
Rồi lời ấy như đá
Rớt xuống lồng ngực vẫn phập phồng của mẹ.
Ðừng lo nghe con, mẹ đã sẵn sàng,
Mẹ sẽ hết mình xoay xở.
Hôm nay, cám ơn Chúa, có nhiều việc phải làm
Mẹ cần giết sạch ký ức,
Bắt linh hồn hóa thành tảng đá,
Bắt da thịt sống thêm lần nữa.
Giá như không có… Tiếng xào xạc của mùa hè nóng bức
Như lễ hội đang bên ngoài cửa sổ.
Mẹ linh cảm từ lâu điều này,
Một ngày quang đãng và ngôi nhà bỏ hoang. [13]

8
Nói với Thần chết
Trước sau gì ngươi cũng đến – tại sao không ngay lúc này?
Ta đang chờ ngươi – Ta không còn chịu nổi,
Ta đã thổi tắt đèn và mở toang cửa
Cho ngươi, rất đơn giản và rất tuyệt vời.
Hãy khoác lấy bất cứ hình thức nào ngươi muốn.
Hãy nổ bùng như quả bom hơi ngạt,
Hay bò vào như kẻ cướp lão luyện với quả đấm sắt,
Hay đầu độc ta bằng cơn sốt thương hàn,
Hay với truyện thần tiên do ngươi bày đặt,
(Ai cũng nghe quen tới độ buồn nôn) trong đó cuối cùng
Ta có thể thấy đằng sau ngươi trên ngưỡng cửa
Những chiếc mũ công an xanh nhạt,
Và vẻ mặt trắng bệch hớt hải của người gác chúng cư.
Cách nào cũng được, ta không màng nữa. Sông Yenisei
Ðang cuồn cuộn chảy. Sao Bắc đẩu đang nhấp nhánh.
Và ánh chớp xanh của những con mắt ta rất yêu dấu
Ðang khép lại trong cơn hãi hùng tối hậu. [14]   

9
Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối đen.
Ðó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó.
Và nó không cho phép tôi mang theo
Một chút gì của tôi.
(Cho dẫu tôi năn nỉ cách nào đi nữa,
Cho dẫu tôi van nài bao nhiêu đi nữa).
Không đôi mắt kinh hãi của con trai tôi
Ðang khổ đau hóa đá.
Không cái ngày khủng khiếp ấy,
Không cái giờ tôi thăm nuôi nó nơi nhà tù.

Không cái mát lạnh dịu dàng của bàn tay nó,
Không chiếc bóng run rẩy của mấy cành dương[15] ,
Không âm thanh đưa lại từ xa
Của những lời an ủi sau cùng. [16]
10 
Hành hình
“Mẹ ơi, đừng khóc cho con,
kẻ ở trong mồ”.
I
Ca đoàn thiên thần hát tụng ca trong giờ trọng đại ấy,
Và các tầng trời chảy ra thành lửa.
Ngài nói với Chúa Cha: “Sao Cha bỏ con…”
Nhưng với Mẹ ngài: “Ðừng khóc cho con…”
II
Maria Magdalene đấm ngực sụt sùi,
Người môn đệ yêu quí[17] biến thành đá.
Nhưng không ai dám – dù khoảnh khắc thôi
Liếc về phía Mẹ[18] đang một mình đứng im. [19]

LỜI KẾT
I
Lập tức mẹ biết các bộ mặt rạn ra như thế nào
Như thế nào cơn kinh hoàng toát lên từ dưới mi mắt
Như thế nào khổ đau tạo thành những trang bản thảo
Bằng chữ hình nêm khắc sâu trên gò má nhợt nhạt.
Như thế nào mái tóc đen hay màu hung hoa râm
Bỗng chốc bạc trắng,
Nụ cười mờ dần trên đôi môi quị lụy,
Và những run rẩy sợ hãi trong tiếng cười khô.
Và mẹ đâu cầu nguyện cho riêng mình mẹ,
Còn cho hết thảy những ai đứng bên ngoài nhà tù,
Trong lạnh buốt hay chói chang mùa hạ,
Bên mẹ, dưới bức tường đỏ mù lòa.

II
Thêm lần nữa giờ tưởng niệm tới gần
Tôi thấy, tôi nghe, tôi cảm giác các bạn
Tất cả các bạn: kẻ què liệt phải có người dìu dắt,
Rất đau đớn, cho tới lúc xong hàng; kẻ ngất ngư;
Và cô gái ấy, kẻ lắc lắc chiếc đầu xinh đẹp,
Và nói: “Tôi tới đây như thể nó là nhà.”
Tôi muốn gọi hết thảy bằng tên từng người,
Nhưng danh sách đã bị lấy đi và không biết tìm nó ở đâu.
Tôi đã dệt cho họ chiếc khăn choàng vĩ đại,
Từ những lời khúm núm tôi từng nghe lỏm.
Tôi vẫn nhớ chúng, không sót một tiếng, bao lâu còn sống,
Dù khủng khiếp mới hay khổ nạn mới, tôi chẳng hề quên. 
Cho dẫu người ta bịt kín cửa miệng kiệt sức của tôi,
Nơi qua đó cả trăm triệu người gào thét;
Tôi mong biết mấy khi tôi lìa đời,
Họ sẽ nhớ tới tôi trong ngày lễ giỗ.
Và nếu ngày nào đó trên đất nước này,
Có người nào đó quyết định dựng tượng đài cho tôi.
Tôi bằng lòng vinh dự ấy,
Với một điều kiện – rằng nó sẽ đứng
Không ở bên bờ biển, nơi tôi chào đời,
Mối dây sau cùng của tôi với biển ấy đã đứt.
Không ở trong vườn hoàng gia gần lùm thông reo,
Nơi chiếc bóng tuổi trẻ khôn nguôi đang tìm kiếm tôi.
Nhưng ngay chỗ này, nơi tôi đã đứng suốt ba trăm giờ,
Và là nơi người ta không bao giờ mở chốt cửa cho tôi.
Hãy nghe đây, cả trong cái chết sung sướng tôi vẫn còn sợ
Rằng tôi sẽ quên đoàn xe tang đen.
Quên như thế nào cánh cửa ghê tởm đóng sập lại
Và một bà lão hú lên như con thú bị thương.
Và có thể dòng tuyết đang tan như những giọt nước mắt,
Từ hàng mi bất động bằng đồng của tôi.
Và chim bồ câu nhà tù gù lên ở một chốn xa
Và những con thuyền thuận buồm xuôi dòng Neva. [20]          


Chú thích
[1] Khủng bố Yezhov. Cuộc đàn áp tập thể tại Liên bang Sô viết, đặc biệt trong hai năm 1938-39, cao điểm của Ðại khủng bố thời Stalin (The Great Terror) khởi sự từ đầu thập niên 1930. Cuộc này được tiến hành bởi Nicolai Yezhov (1895-1939?), ủy viên nội vụ của Stalin (đứng đầu cơ quan NKVD). Chỉ riêng tại Ukraine, có tới 162.000 đảng viên Bôn-sê-vich, chiếm 35% tổng số, biến mất; khoảng 98% ủy viên trung ương và 80% ủy viên khu vực bị bắt. Các thành viên hàn lâm viện như Mykhailo Kravchuk và Yeven Oppokiv bị tống vào trại lao động. Các nhà văn như Ivan Mykytenko, Ivan Kulyk, Borys Kovalenko, Ivan Kyrylenko, và Mykola Filiansky biến mất không một dấu vết.
[2] Nay là nhà tù Kresty.
[3] Akhmatova ghi: Tháng Ba 1940
[4] Bản tiếng Anh: Black Marias (Ðoàn xe ngựa đen trong đám ma).
[5] Hai câu cuối của đoạn này lấy từ bản của D.M. Thomas; ba bản dịch khác (xem phần Nguồn), đều đại thể giống nhau: “Mẹ sẽ giống như vợ của những người Streltsy bị giết, Than vãn không nguôi dưới các ngọn tháp Kremlin”. Ðội thị vệ Streltsy đứng lên nổi loạn chống lại Pyotr Alexeyevich Romanov (Peter I Ðại đế) năm 1698. Hầu hết bị hành quyết hoặc lưu đày.
[6] 1935, Mùa thu, Moscow
[7] 1940
[8] Dinh thự của hoàng gia vào mùa hè, cách trung tâm St. Petersburg 26 cây số, nơi giới quí tộc thường lui tới, (nay là thị trấn Pushkin), nơi Akhmatova sống thời thơ ấu, và là nơi bà gặp người chồng thứ nhất, Nicolay Gumilyov.
[9] Các bản tiếng Anh: The Crosses. Quần thể của nhà tù Kresty tại trung tâm Leningrad, nay lấy lại tên cũ là Petersburg, gần nhà ga Finland, được gọi là khu Thánh giá vì nó có hình hai tòa nhà chéo nhau. Nhà tù này gồm 960 xà lim, thiết kế nguyên thủy là để giam 1.150 người tù.
[10] 1938
[11] 1939
[12] 1939, Mùa xuân
[13] 22 tháng Sáu, 1939, mùa Hè. Fontannyi Dom (ngôi nhà Akhmatova sống ở Leningrad).
[14] 17 tháng Tám, 1939
[15] Cả bốn bản tiếng Anh: Limetrees hoặc lindens, cây đoạn. Tôi dùng “cành dương” cho có thi tính và gần gủi với người Việt.
[16] 4 tháng Năm, 1940, Fontannyi Dom
[17] Tông đồ Gio-an, người được Ðức Giê-su yêu quí nhất trong 12 Tông đồ và trối lời phó thác mẹ của ngài.
[18] Ðức bà Maria.
[19] 1940 Fontannyi Dom
[20] Tháng Ba 1940, Fontannyi Dom

Nguồn:
1. Anna Akhmatova, Selected Poems , D.M. Thomas dịch, Nxb Penguin Books, New York, HK, 1976, bài Requiem, tt.87-96;
2. Requiem, Yevgeny Bonver dịch, www.poetryloverspage.com/yevgeny;
3. Requiem, Sasha Soldatow Mayakovsky dịch,
www. Eliteskills.com/analysis_poetry/Requiem_by_Anna_Akhmatova_analysis.php-;
4. Requiem, Judith Hemschemeyer dịch, www.bezumive.com/requiem.htm;
5. en.wikipedia.org/wiki/ Anna_Akhmatova;
6. Và một số trang web có liên quan tới Anna Akhmatova.




Melbourne 18 thông 11 - 2011
Từ Công Phụng
50 Năm Nhạc Tình Ca

Thiên Hương


Chút tâm nguyện nhỏ cho những người yêu nhau, ước nguyện được mãi mãi bên nhau. 
   Đó là một phần lời chia sẻ của nhạc sỹ Từ Công Phụng trong đêm Nhạc Thính Phòng 50 năm Tình Ca của mình vào một ngày mùa xuân ở Melbourne.
   Đó cũng là những sợi tơ xuyên suốt trong dòng nhạc của ông, dòng nhạc tình ca, của một người luôn cho rằng tình yêu luôn luôn là lẽ sống và thăng hoa cuộc đời. Nếu tình yêu là một hạnh phúc có thực từ cái rung động mãnh liệt của trái tim và nếu chim muông chỉ có một thời để ca hót, cỏ cây chỉ có một thời để xanh tươi và chúng ta chỉ có một thời để yêu và một đời để chết 1
   Melbourne mùa xuân, những tàng cây xanh mướt bóng lá trong cái nóng hừng hực vùng địa cực, rồi những đám mây cuồn cuộn kéo về, rồi những cơn mưa lướt thướt. Những cuồng phong của đất trời vẫn không ngăn nổi hàng trăm bước chân đến khán phòng trong một ngày thứ sáu cuối tuần của tháng mười một. Đêm ấy là đêm nhạc tình ca, đêm tìm lại những ngọt ngào của những thập niên cũ. Đêm gặp lại người nhạc sỹ tài hoa tưởng đã không bao giờ gặp lại.
   Đời sống luôn có những diệu kỳ và những duyên may, nhạc sỹ Từ Công Phụng đã vượt qua căn bệnh ngặt nghèo, vượt qua hàng ngàn dặm bay đến tận Úc châu. Đã lại cất tiếng hát cho đám khán giả ngưỡng mộ mình sau hơn mười năm tái ngộ. Thời gian, hình như thời gian đâu có nghĩa gì trong âm nhạc. Dù thời gian chất đầy thêm những hệ lụy của đời sống, những trói go của thân phận, thì âm nhạc vẫn là con suối thì thầm những lời ru ngọt ngào của tuổi thanh xuân…
Em còn nhớ không em, một lần em đến thăm tôi. Trong một sớm thu sang một mùa mưa ướt phố thênh thang 2….
   Mưa ngoài trời, mưa trong lòng người khi Từ Công Phụng, và những bản tình ca của ông đã làm mượt mà, dịu hẳn đi cái nóng bỏng trái mùa. Đêm ấy, tôi lại được nghe những bài hát dễ thương của ông, những Tình Tự Mùa Xuân, những Đêm Không Cùng, những Giọt Lệ Cho Ngày Sau, những Mắt Lệ Cho Người, những Lời Cuối, những bài ca của thưở người nhạc sỹ mới bước chân vào âm nhạc, và những bài ca của những ngày tháng đã chín muồi yêu thương và đau khổ.
   Nhìn và gặp Từ Công Phụng, thấy ông hiền, rất hiền nên những giòng nhạc của ông cũng hiền như thế. Không có những dữ dội, không có những cay đắng, mà lúc nào chỉ là những lời than rất nhẹ, như những cơn gió lướt qua Trên Đỉnh Tình Sầu, như những giọt nước mắt rơi dịu dàng Trên Những Tháng Ngày Đã Qua. Tình yêu, với Từ Công Phụng, làm nên giá trị con người và thăng hoa cuộc sống3. Từ Công Phụng đã sống hết một cuộc đời để viết về tình yêu, những tình yêu rất nhẹ, những tan vỡ, những khổ đau cũng rất nhẹ, rất đau nhưng với ông, đấy vẫn chỉ là những lời than thở vời vợi như những tiếng thở dài …
Thôi cũng đành một kiếp trăm năm đời người sẽ qua.
Cũng đành một thoáng chiêm bao tình người cũng xa, cũng phôi pha những điêu ngoa theo vết môi cười tàn tạ…4 


"Cuộc sống luôn có những oan khiên, có những khắt khe, nhưng cũng đành chấp nhận, bình thản chấp nhận. Trong đêm nhạc đó, nhạc sỹ đã nói lên những lời thật chân thành về quan niệm của ông, về những ngày tháng chống chọi với bệnh tật.. Bí quyết của tôi là bình thản trong mối hi vọng, đã đến thì phải có đi. Chết hôm nay hay chết trong ngày mai thì cũng thế. Tôi tin vào niềm tin, tôi tin vào sự hi sinh vô bờ của người bạn đời. Lúc nào tôi tỉnh dậy cũng thấy vợ tôi bên cạnh5 "
   Chị Phụng cũng nói anh ấy sống rất đạo đức, rất tốt với gia đình, với mọi người, rất có niềm tin, anh đi lễ tới năm lần một ngày…
   Với niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế, vào tình yêu, nhạc sỹ đã đi vượt qua sự chết và sự sống, vượt qua những thăng trầm của lịch sử, vượt qua những đớn đau của thân phận để lại viết lên, để lại hát lên những dòng tình ca mềm mại như làn tóc của người yêu dấu. Trong dòng nhạc của ông, chúng ta không bao giờ thấy rõ chân dung của những người thiếu nữ, chỉ là dấu chân em qua cầu6, chỉ là những bông hoa giữa đời tươi cười7, chỉ là giấc mơ trong mùa hạ8, v.v…
   Dù những người con gái ấy đã đến và đã đi, dù những cuộc tình đã bay đi như những cánh chim khuất ngàn9, người nhạc sỹ không bao giờ dỗi hờn, không bao giờ giận dữ, không bao giờ cay đắng. Chỉ nhẹ nhàng xin em hãy cho tôi tạ tình, khi em đã đi qua khoảng đời tôi…10.
   Những con người đã đến trong đời, luôn để lại một dấu ấn trong lòng nhạc sỹ. Hôm ấy, ngoài những bài tình ca quen thuộc, nhạc sỹ còn hát cho chúng tôi nghe một bài nhạc mới viết Bên Bờ Sông Giăng (lời thơ của Nguyễn Xuân Thiệp), và một bài hát viết trên đường bay về Mỹ sau chuyến đi Úc năm 2001, Cánh Chim Vùng Hoang Dại.
Bay đi, bay đi từng cánh chim di
Nghiêng trong mắt em một thoáng hương xưa

Em nghe nỗi buồn vời vợi
Tim tôi cánh chim vùng hoang dại
Đã thấy trong mắt em bằng bặt lối về
Mùa thu năm xưa đã trở lại
Tuổi thơ ra đi không trở lại
Buồn thương cho em mộng chưa chín tới đã tàn phai… 
   Giọng hát của Từ Công Phụng vẫn ấm và mạnh, ông hát và những lúc ông quên lời, ông mỉm cười thật hiền lành. Trong lúc ông hát, tôi nghe thấy nhiều tiếng hát theo nho nhỏ từ những hàng ghế xung quanh. Nhiều căp vợ chồng, nhiều cặp tình nhân tựa đầu vào nhau, đắm chìm trong những lời tình ca nồng nàn.
   Chương trình ca nhạc hôm ấy bao gồm nhiều ca sĩ trẻ, rất trẻ và một số giọng ca không chuyên. Tất cả đều thả hồn theo lời nhạc mượt mà. Nhạc sỹ sẽ không còn lo sợ nhạc của mình không đến được giới trẻ, vì nhìn các em hát, chúng ta có thể thấy các em rất yêu và rất hiểu những dòng nhạc của ông. Giữa những bài nhạc tình ca ồn ào thời thượng, những lời nhạc tình của ông nhẹ nhàng vươn lên như những cánh lan trắng ngần thanh khiết, và hi vọng sẽ nở mãi, nở mãi.
   Xen vào chương trình ca nhạc, chiếc đàn vẫn đi theo người nhạc sỹ trong chuyến đi ở Úc được đưa đấu giá, hai thiếu nữ thật trẻ trung xinh đẹp đã giành nhau mua cho được chiếc đàn. Họ đều là những người yêu thích âm nhạc. Cô Hồng, người thắng đấu giá đã đem chiếc đàn về tặng cho chồng hôm đó bận không đến dự được. Ngày chủ nhật cuối tuần ấy, nghe nói họ đã ở bên nhau, chồng đàn cho vợ nghe những bản tình ca bằng cây đàn này.
   Úc châu trong những tháng ngày này vấn vương những dòng nhạc tình của Từ Công Phụng. Khởi đi từ một đêm nhạc ở Sydney, một thân hữu đã mời nhạc sỹ xuống Melbourne. Ngay hôm sau, nhạc sỹ bay lên Canberra cho một đêm nhạc được tổ chức tại khu thủ đô này. Và cuối tuần lễ tiếp theo, một đêm nhạc tình ca thứ tư tại Úc sẽ được tổ chức tại Brisbane. Theo những cơn gió mùa xuân, lấp lánh trong những ánh nắng ngày xuân, thánh thót trong những giọt mưa ngày xuân là những lời tình ca, là những lời than nhẹ nhàng thân phận, là những ngọn sóng yêu thương trùng trùng dịu vợi của dòng nhạc họ Từ.
   Giữa những ngày đầy tin tức căng thẳng về chiến trận ở Li băng, A phú Hãn ; giữa những xôn xao về sự suy thoái kinh tế thế giới ; giữa những thác loạn của âm nhạc, phim ảnh, đời sống ; những tính toán mệt mỏi đời thường ; chúng tôi đã được một buổi tối hoà mình vào những bài tình ca của một thời êm ả, gặp lại người nhạc sỹ và vợ ông ta, để lòng tin vào Thượng đế, vào con người, vào lòng yêu thương lại được thắp sáng lung linh.
   Cám ơn nhạc sỹ, cám ơn chị Phụng, cám ơn ban tổ chức, cám ơn hai MC duyên dáng Linh Hà và Mỹ Lý đã dẫn chương trình, cám ơn những người đã đàn, đã hát, và đã đến nghe trong đêm nhạc Tình Ca 50 năm này. Melbourne đã trở lại những ngày chợt nắng chợt mưa. Gần bốn trăm người đến dự hôm ấy cũng đã trở lại công việc hàng ngày. Nhưng chắc chắn trong chúng ta, tâm hồn ai cũng mềm dịu hẳn đi, khi lời bài hát Ơn em đồng ca vào lúc cuối vẫn réo rắt vang trong tâm khảm. Để những ngày xuân 2011 tươi đẹp hơn, dễ chịu hơn, dễ thương hơn, và luôn tràn đầy ơn phước.
Ơn em thơ dại từ trời
Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
Ơn em dáng mỏng mưa vời
Theo ta lên núi về đồi yêu thương.

Tạ ơn em
Tạ ơn em.11
Thiên Hương
20 tháng 11 năm 201
(Nguon: Dien Dan Forum)

1 Trích trong Vài Lời của Tác Giả - 14 Tình Khúc Từ Công Phụng - 1995
2 Mưa Trên Ngày Tháng Đó - Từ Công Phụng – 1968
3 Trích trong Tuyển Tập Giữ Đời Cho Nhau - 1983
4 Như Chiếc Que Diêm - Từ Công Phụng 1975
5 Lời chia sẻ của nhạc sỹ TCP trong đêm 18 tháng 11 - 2011
6 Mắt Lệ Cho Người – 1972
7 Hoá Kiếp – 1978
8 Xứ Thâm trầm – 1970
9 Mắt Lệ Cho Người - 1972
10 Mắt Lệ Cho Người - 1972
11 Ơn em - Từ Công Phụng 1970 – bài hát chung cuối của chương trình hôm ấy

thơ trầnphùthế

         


BIỆT TĂM 

gió hiu hiu
nắng ui ui
đợi em suốt kiếp, niềm vui khô cằn
đi rồi là bóng biệt tăm.


TẬN CÙNG

biết tận cùng nghĩa đau thương
hiểu tận cùng
lẽ vô thường tử sinh
em ơi,
thắy bóng chẳng hình.
mùi hương năm cũ của mình là đâu?
 

KHÁT KHAO

một mình ngồi trong đêm
nghe lòng mình chùng xuống
nghe lòng mình luống cuống
như tên khờ trăm năm

trăm năm mòn mỏi đợi
một bóng hình như sương
một bóng hình như khói
tan vào cõi vô thường

em ở đâu, ở đâu ?
anh muộn màng phiêu bạt
em về đâu, về đâu ?
anh trăng ngàn bát ngát

một ngày không gặp nhau
một năm không gặp lại
mười năm đầy oan trái
mười năm đầy khát khao

nỗi khát khao nhạt nhòa
nỗi đợi chờ thoi thóp
từng ngày, từng ngày qua
đời anh đang chết ngợp

niềm đợi chờ mòn mỏi
trái tim anh héo khô
trái tim em dại khờ
trong niềm thương bất tận

em ôm buồn lận đận
anh ôm tình rỗng không
hai đứa đầu thương nhớ
hai đứa mòn nhớ mong

ở tít mù vạn dặm
anh nhớ em vô vàn
nhớ từng trong hơi thở
nhớ đầy trong bửa ăn

nhớ từng câu em hát
nhớ từng con chữ rung
của bài thơ anh đọc
của bài thơ vừa xong

anh là một tên điên
khi không ôm nỗi phiền
khi không ôm nỗi nhớ
anh đúng là thằng điên...
tpt.



TẢn mẠn
Bên tách cà phê


Cảm xúc từ New Orleans, một buổi chiều...

Nguyễn Xuân Thiệp



   
Một lần, hoàng hôn chợt tím, khi Nguyễn lái xe qua chiếc cầu cao thành phố Baton Rouge... Chợt nghe khúc ca: Bên bờ sông Mississippi ta ngồi ta hát, nhớ về vầng trăng như khuôn mặt em rạng ngời trên sóng. Ôi, vầng trăng trên sông Mississippi mà ta đã nhìn thấy ngày nào. Có bao giờ gặp lại... Ờ, hình như Trương Nhược Hư có viết: Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh... Thế nhưng, với ta chỉ có vầng trăng trên sông Mississippi là lộng lẫy nhất, đáng nhớ nhất.   

   Về lại New Orleans lần này, Nguyễn lại được dịp ngồi uống cà phê ở Café du Monde cũng bên bờ sông Mississippi. Buổi chiều thật đẹp! Nguyễn vừa thưởng thức cà phê vừa ngắm nhìn những chiếc xe ngựa đậu trước quảng trường Jackson Square và nhà thờ Saint Louis. Ngay trước Café du Monde, một anh chàng da đen đang hát khúc hát buồn của những nghệ sĩ jazz vùng New Orleans.
    Sau ly cà phê và chiếc bánh beignet thơm lừng, Nguyễn cùng gia đình dẫn cháu gái Nguyệt Quỳnh đi dạo chơi trên Con Đường Trăng Moonwalk dọc bờ sông. Buổi chiều nắng nhẹ. Hải âu bay trên công viên, đáp xuống các thảm cỏ. Một đôi hải âu đậu ngay trên đỉnh tượng đài Di Dân - Immigrants, cất tiếng kêu. Chúng kêu vì vui chung trong niềm vui của người tứ xứ về đây dạo chơi trên đường trăng hay chúng kêu vì nhớ đất trời rộng lớn còn đọng trên đôi cánh? Hay vì "chiều nay biết về nơi đâu / dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu?!" (Lời Du Tử)



   Về đâu? Về đâu?... Nguyễn ngước nhìn lên tượng đài. Bố mẹ và hai đứa con -một bé gái còn bồng ẵm trên tay mẹ, một con bố dắt đi sát ngay bên cạnh và là một bé trai. Thoáng chốc, lòng mình chùng xuống. Ôi, họ đến từ đâu vậy? Từ nước Pháp hay Đức hay Ăng Lê? Họ có bị truy bức không hay chỉ vì muốn đi tìm một chân trời mới, khoáng đãng hơn và nhiều cơ hội hơn? Bản thân Nguyễn này cũng là di dân cho nên dễ thông cảm với những người mẫu của tượng đài. Trong trí tưởng rất ư là lếu láo của mình,  hình dung thấy những khốn khó của các di dân. Sao buồn đến thế này, em ơi và các bạn ơi. Ôi, thế kỷ của rào cản của những đường ranh và những biên thùy có chó săn và súng đạn. Đã lâu rồi, ở những ngày khốn cùng và tuyệt vọng khi còn trong trại tù đá núi Thanh Chương Nghệ Tĩnh, nhìn trăng Nguyễn đã viết:
ta thấy. ôi. mây trời ảo biến
dưới trăng. lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi. nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại. đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong nỗi chết
vượt biên thùy. sa mù. và mưa
từng nơi. đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng. mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm. ra nhìn dòng sông. ca
(Ánh trăng)
   Thế đó, các bạn ơi, chúng ta nào có muốn nhưng đều bị xô vào nghịch cảnh. Cái cột đèn kia nếu biết đi thì nó cũng phải bỏ nước ra đi thôi! (Ôi, anh Trần Văn Trạch, anh nói một câu hay quá, mãi mãi sẽ còn nhắc tới) Vâng, thế đó. Nguyễn tôi có thể hình dung thấy, ở những ngày đầu tiên trên nước Mỹ này, đôi vợ chồng kia đều phải lao vào công việc. Chồng làm trong garage sửa xe hơi chẳng hạn, và vợ thì làm ở một hãng assembly, còn cậu con trai được đi học ít lâu rồi cũng nhảy ngang ra đi làm -bồi bàn nhé- để phụ giúp bố mẹ. Chỉ cô bé còn bế trên tay là được học hành đầy đủ, để rồi sau này cô nhập vào dòng chính và trở thành nổi tiếng (như Leyna Nguyễn), phải không? Rồi thời gian trôi qua, tới thế hệ thứ hai thứ ba, tất cả sẽ trở thành Americans như bao gia đình người Mỹ ta gặp chung quanh.
    Nguyễn tôi gần đây cũng đã được xem ảnh chụp một tượng đài thuyền nhân ở Cali gồm vợ chồng con cái rách nát tả tơi, đưa bàn tay tuyệt vọng về phía chân trời. Tượng đài gây nhiều cảm xúc trong lòng mỗi người chúng ta.
    Xin nhắc lại: Thế kỷ vừa qua là thế kỷ của di dân. Họ phải vượt qua nỗi chết để tìm ra đất sống. Trên freeway số 5 ngày nào, từ San Diego đi Santa Ana, mình đã được nhìn thấy tấm bảng vẽ một gia đình Mễ "vượt biên thùy sống chết", gồm vợ chồng và đứa con gái dắt tay nhau chạy qua đường băng. Sao khốn khổ và liều lĩnh đến thế, nhưng suy cho cùng cũng là vì sự sống thôi, cũng như các thuyền nhân Việt Nam đã tạo nên một khúc quanh lịch sử của đổ vỡ, chia ly.  Ô. Việt Nam. từng là nỗi đau xé trong tôi / sao tôi khóc lúc ra đi / phương đỏ một lời yêu dấu cũ / là lúc chia xa... Và rồi, chúng ta đứng lên. Từ những mảnh vỡ, chúng ta đứng lên. Và trên những vùng đất của thế giới, đã có những thư viện, trung tâm giáo dục và giải trí, những khu phố những thiền viện nguy nga của người Việt. Tất cả hiện lên sức sống và vẻ rực rỡ, khiến những quý ông Cộng Sản như Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng phải lớn tiếng tuyên dương "khúc ruột ngoài ngàn dặm". Thật không còn danh từ nào để nói về họ nữa! Riêng với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, Nguyễn này ước mong rồi đây ở những thành phố lớn như Washington DC, Houston, Dallas, San Jose, Westminster, Boston, Atlanta... mỗi nơi đều có tượng đài thuyền nhân, gồm gia đình hai vợ chồng và hai đứa con áo quần tóc tai tơi tả. Tượng đài này sẽ nói với mai sau về sự có mặt của chúng ta trên đất này.
    Còn nhớ trong một đoạn tiệp ký, kẻ này có viết như sau về New Orleans:
   "Cảng New Orleans từng nổi tiếng với những con tàu nằm mơ sóng trùng khơi. Người Việt bỏ xứ, ra đi từ những làng chài lưới ven biển quê hương, tụ tập về đây sống thành từng làng với nhau và còn giữ nếp sống của quê nhà. Đặc biệt ở khu Versailles, có những dãy phố của người Việt. Ở đây, người ta thấy có sự nhếch nhác quen thuộc, chứ không được khang trang như ở Cali hay Houston, Dallas. Có những xe tôm, xe rau bán ở vỉa hè. Có những thanh niên tóc dài, những người đàn ông mặt mày xiêu xó - hình như là lính tráng thời xưa. Họ ngồi uống bia trên góc phố và chào người qua lại. Ở đây, người ta gặp cả người da đen, da màu vào ra mua bán. Chung quanh, trong khu làng người Việt, người mình trồng rau trên sân nhà, đằng trước và đằng sau, gợi những hình ảnh quen thuộc đã mất hút trong thời gian. Nhiều nhà có tượng Đức Mẹ trước sân. Trước cơn bão Katrina, Nguyễn và bà xã đã đi xem chợ chồm hổm của người Việt trong khu Versailles. Chợ họp từ 5 giờ sáng và tan sau 8 giờ. Ở đây, người mình bày bán đủ thứ rau, trái cây, tôm cá, lòng heo, bánh mì thịt, gà vịt... Có những bà cụ già ăn mặc theo lối Bắc cổ truyền, ngồi bán vài mớ rau, trái mướp, trái bầu hoặc trầu cau. Bán chừng đó đâu được bao nhiêu, nhưng các cụ lấy làm vui vì có dịp sống lại không khí làng xóm quê nhà. Tiếng nói cười dậy cả một vùng. Nguyễn tưởng mình đang ở chợ Vườn Chuối hay chợ Hòa Hưng ngày nào."
    Thế đấy... khu phố Versailles với quán sách Kim Anh và chợ chồm hổm và quán cà phê Chiều Tím bên góc nhà thờ. Bây giờ tất cả còn không, ở khu phố đó, góc đường đó...
Ơi, chàng nhạc công da đen có lần đã tấu lên khúc nhạc giang hồ nơi cảng rượu. Và cây guitar ngân vang như tiếng chuông của chàng, còn không Johnny B. Goode, hay đã vỡ tan trên kè đá trong trận hurricane ngày nào:
Deep down Louisiana close to New Orleans
Way back up in the woods among the evergreens
There stood a log cabin made of earth and wood
Where lived a country boy named Johnny B. Goode
Who never ever learned to read or write so well
But he could play the guitar just like a ringing bell
Go go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go Johnny B. Goode.
("Johnny B. Goode", Chuck Berry) 
    Như thế đấy. Xuôi mãi về phía Nam của Louisiana / gần New Orleans / những con đường ngược lên các khu rừng xanh um / nơi có căn lều gỗ của Johnny / anh chàng chưa hề biết đọc biết viết thành thạo / nhưng chơi guitar thì như tiếng chuông ngân.
   Đàn lên đi Johnny / Đàn lên đi Johnny
   Tiếng đàn như chuông ngân của Johnny giờ còn không. Người nào đã nói: Tất cả đã không còn gì, New Orleans. Tất cả đã không còn gì, bình minh mặt trời bị đóng đinh trên cột buồm gãy gục, chuyến xe lửa chở hàng ngày nào đã đi vào hư vô:
Good mornin' America, how are you
Don't you know me? I'm your native son
I'm the train they call the City of New Orleans
I'll be gone 500 miles when the day is done
("The City of New Orleans", Arlo Guthrie - trích lại theo Đỗ Kh., Talawas)
   New Orleans! New Orleans!
   Tiếng đàn guitar của Jhonny, căn nhà gỗ và chuyến xe lửa mang tên Thành phố New Orleans. Đối với những người làm thơ lưu lãng, New Orleans là niềm bí ẩn có sức quyến rũ đặc biệt. Cũng như  bạn Nguyễn Minh Diễm, kẻ này rất yêu mê New Orleans -thành phố của những quán rượu giang hồ và nhạc jazz da đen cháy giữa đêm hồng. Ai đã từng ghé thăm khu phố xưa một lần, ắt không thể quên được. Vậy mà, có lúc, như đã nói ở trên, sau cơn bão Katrina năm 2001, chúng ta tưởng đã mất đi tất cả. Nhà cửa sụp đổ, đường sá nước cuốn trôi, người chết tìm được xác hoặc mất tích, cư dân thành phố bỏ đi, tan tác. Nhưng rồi New Orleans dần dần hồi sinh. Những căn nhà bắt đầu ấm lửa trở lại. Những khu phố bắt đầu có hơi người. Xin lật lại tờ Newsweek của tháng 9. 2002, xem tấm hình chụp cảnh phố Rue St. Louis ở khu Pháp Cổ, với lời ghi chú "một con phố hồi sinh sau cơn bão và nhà hàng ăn ở đây đã bắt đầu bày bán thức uống nhẹ”. Quả thật con phố đã bắt đầu có chút sinh khí mặc dầu dấu vết đổ nát vẫn còn đâu đó, trên một đoạn vỉa hè tróc lở, ở bức tường còn loang ngấn nước triều lên. Và kìa, trên chiếc bàn tròn bên góc vỉa hè thấy có chai rượu đỏ và cái ly. Tim nghĩ: Phải chăng góc này còn chờ đợi ai kia, sao lại không phải là chúng ta nhỉ, những tình nhân đã thất lạc nhau từ chiến tranh và những cuộc đổi dời. New Orleans. New Orleans. Anh thầm kêu lên, như Yuri gọi tên Lara trong giấc mộng.
   Và rồi người đã trở về. Nhạc Jazz trỗi dậy trên hè phố. Buôn bán đã phồn thịnh. Người Việt ở khu Versailles đã có thể trồng lại luống rau, dàn mướp. Và trước thềm nhà trong bóng hoàng hôn, một cư dân da màu đã có tuổi đang thanh thảnh uống bia. Và trên bức rào còn màu gỗ mới, một thanh niên da đen đang ngồi búng những tiếng đàn vào buổi chiều tím thẫm. 
   Vâng, nước Mỹ không thể thiếu New Orleans. Nguyễn và các bạn làm thơ đã từng viếng thăm thành phố này trong những năm tháng lãng du cũng không thể thiếu New Orleans. Ngay từ phút giây dạo chân trên hè phố Bourbon, Nguyễn đã có thể nghĩ tới ánh đèn Giáng Sinh trên nhà thờ Saint Louis và ca khúc Jingle Bells Jingle Bells vang lên trước cửa mỗi nhà cùng ánh lửa bonfires bừng lên đây đó bên dòng Mississippi.
NXT